05/03/2012 - 21:50

Vì một đồng bằng sông Cửu Long phát triển

Ngày 20-1-2003, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 21/NQ-TW về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh - quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thời kỳ 2001 - 2010 (gọi tắt là Nghị quyết 21). Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết quan trọng này, những thành quả đạt được càng khẳng định nỗ lực của các địa phương, chỉ đạo sát sao của Trung ương vì một ĐBSCL phát triển…

* CHẶNG ĐƯỜNG 10 NĂM

ĐBSCL – vựa lúa, vựa trái cây, thủy sản... của cả nước và giữ vị trí chiến lược trong đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Nhưng thời gian qua, nơi đây phát triển chưa tương xứng với vị thế, tiềm năng vốn có. Theo ông Nguyễn Phong Quang, Phó trưởng Ban Thường trực Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, 10 năm thực hiện Nghị quyết 21, ĐBSCL đã đạt thành tựu khá toàn diện. Kinh tế các tỉnh, thành trong vùng phát triển nhanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, hiệu quả sản xuất được nâng cao, tổ chức huy động tốt các nguồn lực đầu tư; môi trường đầu tư được cải thiện. Nông, lâm, ngư nghiệp của vùng phát triển khá, từng bước hình thành vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, phát huy lợi thế sản phẩm chủ lực của vùng và thể hiện vai trò trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản của cả nước.

Xây dựng TP Cần Thơ thành trung tâm vùng là một trong những nhiệm vụ thực hiện Nghị quyết 21 giai đoạn 2011-2020. Trong ảnh: Một góc đô thị TP Cần Thơ. 

10 năm qua, lĩnh vực công nghiệp được các địa phương trong vùng chú trọng phát triển, đi dần vào khai thác các thế mạnh như chế biến nông sản; bước đầu tập trung đầu tư phát huy lợi thế về công nghiệp dầu khí, năng lượng, nhiệt điện và cơ khí. Thương mại, dịch vụ, du lịch, thông tin và truyền thông trong vùng có bước phát triển, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu thụ và đời sống nhân dân. Thực hiện Nghị quyết 21, thời gian qua, các địa phương trong vùng có nhiều cố gắng đầu tư xây dựng (XD) cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông gắn kết với thủy lợi; toàn vùng cơ bản hoàn thành mục tiêu XD cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ, các đô thị được đầu tư, nâng cấp... Song song với phát triển lĩnh vực kinh tế, các lĩnh vực xã hội như: giáo dục - đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân được các địa phương trong vùng từng bước củng cố... góp phần cải thiện đời sống nhân dân, nhất là đồng bào vùng dân tộc Khmer, Chăm...

Những thành quả nổi bật của vùng ĐBSCL trong việc thực hiện Nghị quyết 21 có thể minh chứng bằng những kết quả cụ thể sau: Cuối năm 2010 so với giai đoạn 2001-2005: tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP từ 44,92% giảm còn 39%; tỷ trọng ngành công nghiệp, XD từ 23,3% tăng lên 26%; thương mại, dịch vụ từ 31,78% lên 35%. Giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp tăng từ 56.292 tỉ đồng năm 2001 lên 101.000 tỉ đồng năm 2010. Thu nhập trên mỗi ha đất sản xuất nông nghiệp trong vùng tăng từ 20,2 triệu đồng/ha vào năm 2000 lên gần 38 triệu đồng/ha năm 2010. Năm 2010, thu nhập bình quân đầu người/năm của vùng ĐBSCL tăng gấp 2,5 lần so năm 2001... Tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng (theo chuẩn mới) đến năm 2010 giảm còn 13,45%; giải quyết việc làm bình quân 375.000 lao động/năm; tỷ lệ dân nông thôn được cung cấp nước sạch đạt trên 87%. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, cuối năm 2008, toàn vùng đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS; đến cuối năm 2010, 12/13 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi...

* NHẬN DIỆN YẾU KÉM

Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, bên cạnh những kết quả đạt được, ĐBSCL còn những hạn chế nhất định trong thực hiện Nghị quyết 21. Đó là: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp, yếu tố rủi ro còn cao, chưa tương xứng tiềm năng của vùng. Nông nghiệp có lợi thế, nhưng công tác qui hoạch chuyên ngành như: sản xuất lúa, nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn trái... còn chậm; chưa khai thác tốt tiềm năng và đạt hiệu quả các mặt hàng nông sản chủ lực, kinh tế mũi nhọn của vùng, chưa tạo được nhiều thương hiệu mạnh. Nền kinh tế nông nghiệp quy mô nhỏ, rủi ro cao, bị đe dọa nguy cơ biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Về chuyển đổi cây trồng, vật nuôi theo Nghị quyết xác định như: trồng cây bông, đay, nuôi bò sữa không phù hợp với vùng ĐBSCL nên một số địa phương thực hiện không thành công. Kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi tuy được tập trung đầu tư các năm qua, nhưng cơ bản vẫn còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Một số công trình trọng điểm về giao thông được xác định trong Nghị quyết như: cầu Vàm Cống, đường cao tốc Trung Lương-Cần Thơ, tuyến đường sắt TP Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho, các cảng nằm dọc trên tuyến sông Tiền, sông Hậu; cảng biển Đại Ngãi, Hòn Chông chưa được đầu tư XD...

Thời gian qua, liên kết giữa các địa phương trong vùng ĐBSCL và với các tỉnh, thành cả nước chưa thật sự gắn kết để tạo động lực mạnh mẽ, đồng bộ cho sự phát triển bền vững. Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, lợi thế cạnh tranh của các địa phương trong vùng tương tự nhau, nên dễ gây ra tình trạng cạnh tranh (như trong lĩnh vực du lịch và nuôi trồng thủy sản). Chính sách của các địa phương vẫn còn mang nặng tính phong trào, chưa thực sự hữu hiệu trong việc khai thác các thế mạnh đặc thù. Nhiều địa phương muốn duy trì cơ cấu sản xuất toàn diện và khép kín nên dồn nguồn lực cho lĩnh vực không có thế cạnh tranh, từ chối khai thác thế mạnh đặc thù hay lợi thế cạnh tranh của các địa phương khác... Liên kết thị trường, liên kết “4 nhà” là động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các địa phương ĐBSCL. Tuy nhiên, hình thức liên kết này vẫn chưa phát huy hết tiềm năng do nhiều nguyên nhân cản trở. Trong đó quan trọng nhất là đầu tư của trung ương về cơ sở hạ tầng cho vùng ĐBSCL còn yếu và thiếu, không đồng bộ, thiếu kết nối. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực thấp, chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, trong khi lao động có kỹ năng đạt trình độ thấp và không đáp ứng được tốt yêu cầu công việc. Xuất khẩu ở ĐBSCL chủ yếu vẫn qua hệ thống cảng biển ở TP Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ. Với chất lượng của cơ sở hạ tầng giao thông kém và chi phí vận tải cao như hiện nay, hàng hóa của ĐBSCL đang chịu nhiều thiệt thòi to lớn, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

* PHÁT HUY THỰC LỰC ĐBSCL

Thực hiện Nghị quyết 21, theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 2011-2020 là: XD vùng ĐBSCL tiếp tục là vùng trọng điểm nông nghiệp, thủy sản, là một trong những trung tâm năng lượng cả nước. Theo đó, tập trung XD vùng ĐBSCL trở thành vùng phát triển năng động về kinh tế, các mặt văn hóa, xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước; đóng góp ngày càng lớn vào nền kinh tế đất nước. Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và nguy cơ nước biển dâng; tập trung XD xã nông thôn mới. Những khâu đột phá của vùng trong thời gian tới là phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội như: giao thông, thủy lợi, giáo dục đào tạo, y tế, dạy nghề và XD nông thôn mới kết hợp với phát triển hợp lý các đô thị trung tâm và các khu công nghiệp đã được qui hoạch.

Để thực hiện được mục tiêu đề ra, ngoài việc khai thác tối ưu tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và cả vùng, ĐBSCL tiếp tục tập trung đầu tư phát triển bền vững nông nghiệp, phát triển mạnh kinh tế biển, tập trung đầu tư Vùng kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL; XD TP Cần Thơ thành trung tâm vùng, XD đảo Phú Quốc thành đặc khu hành chính – kinh tế, trung tâm dịch vụ, du lịch của khu vực; XD hợp lý các khu, cụm công nghiệp tập trung, vận dụng tốt các chính sách thu hút, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước. Để đưa vào “đường ray” phát triển bền vững, ĐBSCL tiếp tục đầu tư mạnh cho kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông và thủy lợi; ưu tiên tập trung cho hệ thống giao thông huyết mạch liên vùng đối với giao thông đường bộ, đường thủy, hàng không và hệ thống các cảng biển, nghiên cứu XD một cảng nước sâu cho vùng; XD hệ thống thủy lợi, nhà ở phù hợp với xu hướng biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. Bên cạnh đó, triển khai XD các công trình trọng điểm của vùng, như: Nhà máy điện sử dụng than, khí thiên nhiên tại Trung tâm điện lực Ô Môn (Cần Thơ), các nhà máy nhiệt điện than tại Trung tâm Điện lực Kiên Lương (Kiên Giang), Trung tâm điện lực Duyên Hải (Trà Vinh), Trung tâm điện lực Long Phú (Sóc Trăng), Trung tâm điện lực Sông Hậu (Hậu Giang); XD hoàn thành đường cao tốc Trung Lương-Cần Thơ; tuyến N2, N1; đường ven biển, luồng cho tàu có trọng tải lớn vào các cảng trong vùng ĐBSCL; các cầu Cổ Chiên, Vàm Cống, Cao Lãnh, Đại Ngãi...

Theo Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, đưa ĐBSCL vào “đường ray” phát triển bền vững, các địa phương trong vùng cần thí điểm, nhân rộng các mô hình sản xuất tiên tiến, phù hợp trong điều kiện mới, tạo được giá trị gia tăng cao, làm thay đổi về chất theo sự phát trển của toàn vùng. Chủ động XD trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, Chính sách hợp tác liên tỉnh trong vùng, hợp tác với các vùng và các nước trong khu vực; giữa vùng ĐBSCL với vùng Đông Nam Bộ và TP Hồ Chí Minh; tăng cường hợp tác với Campuchia và các nước trong khu vực nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển ĐBSCL giai đoạn 2011-2020.

Bài, ảnh: HÀ TRIỀU

Chia sẻ bài viết