Trong nhiều thập niên trước đây, chính sách an ninh của Đức chủ yếu dựa vào Mỹ thông qua các cơ chế liên minh trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Nhưng thời kỳ đó đã qua, các chuyên gia nhận định khi Berlin tập trung hơn vào ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu giữa thời điểm gia tăng mối lo ngại về mức độ tin cậy với Washington.

Lãnh đạo E3 (Anh, Đức, Pháp) thúc đẩy hợp tác an ninh khu vực. Ảnh: AFP
Sự phụ thuộc của châu Âu nói chung đối với thiết bị quốc phòng Mỹ đã tăng đáng kể những năm gần đây. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), vũ khí nhập khẩu từ Mỹ vào châu Âu - bao gồm cả Ukraine - đã tăng hơn gấp 3 lần từ 13% (2015-2019) lên 35% (2020-2024). Đặc biệt, Đức ghi nhận mức tăng 334% với khoảng 70% số lượng vũ khí nhập từ các nhà thầu quốc phòng Mỹ.
Nhưng thời gian gần đây, chính quyền Mỹ được cho “âm thầm” tạm dừng một số thương vụ với các đồng minh châu Âu do nhiều loại vũ khí trong kho dự trữ rơi vào tình trạng khan hiếm, chẳng hạn hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot. Kể từ khi nhậm chức hồi tháng 1, Tổng thống Mỹ Donald Trump với chính sách “nước Mỹ trên hết” cũng đã làm rõ rằng trong tương lai, châu Âu sẽ cần phải tự bảo vệ mình với ít sự hỗ trợ hơn.
Bối cảnh thay đổi như vậy nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết của châu Âu trong việc tăng cường năng lực phòng thủ của khu vực. Trong số các nỗ lực đang được triển khai để đáp ứng tình hình thực tế, sự nhiệt tình của Đức đối với đầu tư quốc phòng đi kèm những tuyên bố chính trị thúc đẩy tái thiết chủ quyền công nghiệp của châu Âu đang gây nhiều chú ý.
Hiện tại, chính quyền của Thủ tướng Đức Friedrich Merz có kế hoạch thực hiện 154 đợt mua sắm quốc phòng lớn từ tháng 9-2025 đến tháng 12-2026 nhằm thúc đẩy xây dựng “lực lượng vũ trang thông thường mạnh nhất” châu Âu. Đáng nói là theo lộ trình mới dựa trên phương châm “mua hàng châu Âu vì an ninh châu Âu”, chỉ 8% thương vụ trong kế hoạch nói trên là hợp tác với các nhà cung cấp Mỹ.
Năm ngoái, Đức cũng đã khởi động dự án Phương pháp Tấn công Tầm xa châu Âu (ELSA) cùng với Pháp, Ý, Ba Lan, Anh và Thụy Điển, đánh dấu sự hồi sinh năng lực hầu như không có trong kho vũ khí của các nước khu vực kể từ những năm 1990. Ngoài ra, châu Âu cũng chứng kiến sự lớn mạnh trong mối quan hệ tam giác Đức - Pháp - Anh (E3) thông qua các hiệp ước song phương về hợp tác quốc phòng và an ninh, chẳng hạn như Hiệp định Lancaster House Anh/Pháp năm 2010 và phiên bản cập nhật 2.0 được Thủ tướng Anh Keir Starmer và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron ký vào tháng 7 vừa qua. “Lancaster 2.0” sau đó được tiếp nối bằng Hiệp ước Kensington ký giữa Thủ tướng Merz với người đồng cấp Anh Starmer, tập trung vào các điều khoản “hỗ trợ lẫn nhau” trong trường hợp bị tấn công và “các chiến dịch xuất khẩu chung”.
Nhìn chung, việc tăng cường sản xuất vũ khí gần đây của châu Âu và cam kết của các đồng minh NATO ở khu vực tăng chi tiêu quốc phòng lên 5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2035 sẽ giúp bù đắp sự thiếu hụt về trang thiết bị và củng cố nền tảng ngành công nghiệp vũ khí của lục địa già.
Dẫu vậy, trong chuyến thăm chính thức đầu tiên tới Nhà Trắng hồi tháng 6, Thủ tướng Merz thừa nhận rằng “dù muốn hay không, chúng ta vẫn sẽ phụ thuộc vào Mỹ trong thời gian dài sắp tới”. Chẳng hạn, Đức đã đặt mua 400 tên lửa tầm xa không đối không phiên bản mới AIM-120D-3 AMRAAM của Mỹ trị giá 1,23 tỉ USD để trang bị cho chiến đấu cơ thế hệ thứ năm cũng được mua từ Mỹ. Đức còn đang đàm phán với tập đoàn Lockheed Martin của Mỹ để mua hệ thống tên lửa Typhon với tầm bắn lên tới 2.500km, tức có thể tấn công thủ đô Mát-xcơ-va của Nga. Ngoài ra, Sáng kiến Lá chắn Bầu trời châu Âu (ESSI) do Berlin khởi xướng phần lớn cũng dựa trên hệ thống Patriot của Mỹ.
MAI QUYÊN (Theo Euro News, europeansting)