21/07/2010 - 21:50

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Để phát triển thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn

Bài 4: DỰ BÁO CHO TƯƠNG LAI

Dù được nhận định là nhiều khó khăn, thách thức nhưng trong quá trình phát triển, thủy sản (TS) cả nước nói chung và ĐBSCL nói riêng vẫn còn rộng đường phía trước. Bởi lẽ, nhu cầu tiêu dùng TS trong và ngoài nước được dự báo tiếp tục tăng, nhiều đối tượng TS tiếp tục có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển. Đặc biệt, ở thị trường xuất khẩu, như một doanh nghiệp bày tỏ: chỉ lo nguồn lợi TS của Việt Nam không còn đủ khả năng cung cấp nếu không có chính sách bảo quản, nuôi trồng hợp lý. Bởi lẽ các thị trường EU, Nga, Mỹ, Trung Quốc... luôn cần nguồn TS của Việt Nam với số lượng lớn và đa dạng. Vấn đề là làm thế nào hàng TS ĐBSCL và cả nước được các thị trường chấp nhận?

NHU CẦU TIÊU DÙNG TS GIA TĂNG

Thời gian gần đây khi bùng nổ những nguy cơ sức khỏe con người như bệnh béo phì, các loại dịch bệnh hoành hành trên gia súc, gia cầm như bệnh bò điên, bệnh lở mồm long móng, heo tai xanh, cúm gia cầm... thì TS gần như đã trở thành một lựa chọn an toàn nhất. Đây là những nguyên nhân chính khiến người tiêu dùng trong và ngoài nước có xu thế lựa chọn các mặt hàng TS ngày càng nhiều. Trong khi đó, thực tế hiện nay, theo Tổ chức Lương Nông của Liên Hiệp Quốc (FAO), gần 90% nguồn lợi biển trên thế giới đã khai thác đến mức hoặc thậm chí quá giới hạn cho phép. Chính vì thế, nuôi trồng thủy sản (NTTS), lợi thế của TS Việt Nam sẽ chiếm ưu thế trong thời gian tới.

 Chế biến tôm đông lạnh xuất khẩu ở TP Cần Thơ. Ảnh: K. XUÂN

Sau sự kiện đánh thuế “bán phá giá” cá ba sa, cá tra vào thị trường Mỹ và cuộc khủng hoảng cung cầu thời gian vừa qua ảnh hưởng trực tiếp tới loài thủy sản này ở ĐBSCL: hàng loạt các hộ nuôi cá tra, cá ba sa đã có giai đoạn không bán được sản phẩm. Ngay sau đó nhờ mở rộng thị trường nội địa với sự phát triển các mặt hàng mới, một thị trường lớn ngay trong nội địa đã mở cho loại hàng TS được chế biến từ con cá tra, cá ba sa. Hiện nay hầu hết các siêu thị, các cửa hàng lớn trên toàn quốc đều có bán các loại sản phẩm cá tra chế biến dưới các dạng khác nhau. Đây là một bài học đắt giá để các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu TS chú trọng phát triển thị trường nội địa, thúc đẩy nghề NTTS ở ĐBSCL. Hơn nữa, Theo Bộ NN&PTNT dự báo, sau năm 2010 thị trường hàng hóa TS trong nước còn rất lớn. Tuy nhiên, đòi hỏi của người tiêu dùng về chất lượng ngày càng cao. Chỉ các giống loài TS có giá trị dinh dưỡng cao, chất lượng bảo đảm mới hấp dẫn được người tiêu dùng. Nếu trước những năm 90 của thế kỷ trước, TS được tiêu thụ chủ yếu dưới dạng sống nguyên con, tươi ướp nước đá, cá khô, ướp muối,... thì ngày nay các loài cá đã chế biến qua sơ chế, đông lạnh, tươi sống và kể cả đồ hộp đã và đang trở thành sản phẩm hàng hóa phổ biến trên thị trường. Những đối tượng TS giá trị cao như tôm biển, cua, ghẹ, tôm hùm, các loại cá như; cá mú, cá giò, cá chình, cá quả, cá rô phi, cá ba sa, cá tra, cá trắm đen... được tiêu thụ rộng rãi chủ yếu được tiêu thụ dưới dạng tươi sống.

Ngoài ra, theo FAO, năm 2010 nhu cầu TS toàn thế giới vào khoảng 156,72 triệu tấn; riêng các nước đang phát triển, đặc biệt là khu vực châu Á vào năm 2010 sẽ chiếm 58% mức tiêu thụ TS toàn thế giới. Đến năm 2020, con số tương ứng vừa nêu là 183,4 triệu tấn và 77% tổng lượng tiêu thụ. Còn tính theo bình quân đầu người thì nhu cầu tiêu thụ sản phẩm TS trên toàn thế giới được dự đoán là 18,4 kg/người/năm năm 2010 và 19,1 kg/người/năm vào năm 2015. Theo Bộ NN&PTNT, nếu lấy số lượng du khách dự đoán đến Việt Nam của Tổng Cục Thống kê Việt Nam trong năm 2010, 2015 và 2020 lần lượt là 4.913 người, 5.376 người và 6.559 người thì Việt Nam tiêu thụ khoảng 710.000 tấn TS vào năm 2010, khoảng 8.900 tấn vào năm 2015 và khoảng 10.600 tấn vào năm 2020. Đây là điều kiện rất tốt để ngành TS cả nước và ĐBSCL phát triển.

NHẬN DIỆN THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU

Hiện nay, xuất khẩu TS của Việt Nam đã có mặt ở trên 165 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, các thị trường chiếm tỷ lệ nhập khẩu TS của Việt Nam cao như: EU, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, ASEAN, Trung Quốc ... Nhận diện nhu cầu, xu hướng tiêu dùng TS của các thị trường nhập khẩu, nhất là các thị trường lớn là một yêu cầu thiết yếu đối với sự phát triển của ngành TS cả nước nói chung và ĐBSCL nói riêng. Bởi chính sức mua cũng như sự chấp nhận chất lượng của thị trường nhập khẩu là đòn bẩy thúc đẩy việc phát triển ngành TS ngày càng quy mô cả về chất và lượng.

Theo VASEP, 27 nước EU là thị trường tiêu thụ TS lớn nhất thế giới, với kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 34 tỉ USD. Vì đây là một cộng đồng rộng lớn, thị hiếu đa dạng, đồng euro hầu như không bị ảnh hưởng bởi đồng USD nên về chiến lược xuất khẩu lâu dài, không nhà xuất khẩu nào có thể bỏ qua. Mặt khác, EU luôn là thị trường sôi động ngay cả trong thời điểm suy thoái kinh tế. Trừ tiêu chuẩn vi sinh - là tiêu chuẩn tuyệt đối để vào thị trường này thì sự khắt khe đối với chất lượng tiêu chuẩn sản phẩm hàng TS nhập khẩu vào thị trường này không rõ rệt lắm. Dù đây là thị trường đầy tiềm năng và ổn định nhưng không phải nhà xuất khẩu TS Việt Nam nào cũng có khả năng khai thác và duy trì được. Bởi thị trường này kiểm soát vi sinh đối với sản phẩm rất chặt; nhà xuất khẩu phải có Code EU, duy trì HACCP thật nghiêm ngặt. Đặc biệt, năm 2010, hải sản xuất khẩu vào EU phải áp dụng xác nhận vùng đánh bắt (quy định IUU)... Đây là các rào cản kỹ thuật mà không phải nhà xuất khẩu TS Việt Nam nào cũng có thể kiểm soát và thực hiện được...

Hàn Quốc và Nhật Bản, hai thị trường hiện đang đứng đầu, tương đối ổn định và tương đối dễ chấp nhận đối với hầu hết các nước, khu vực nhập khẩu hải sản Việt Nam. Là 2 thị trường không khắt khe trong vấn đề vi sinh, nhưng lại rất chú trọng đến qui cách chất lượng. Từ năm 2009 đến nay - trong giai đoạn bình ổn dần nền kinh tế sau suy thoái - thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản đã dần ổn định và chấp nhận các sản phẩm chất lượng thấp nhằm đảm bảo giá cả ổn định cho đầu vào.

Về thị trường Trung Quốc, một doanh nghiệp xuất khẩu TS nhận định: Là một thị trường vừa mua, vừa bán và khá dễ tính nên Trung Quốc là thị trường rất có tiềm năng. Song, thị trường nào mà nguồn TS Trung Quốc đang chiếm lĩnh thì TS Việt Nam không thể cạnh tranh được. Bởi, Trung Quốc có chính sách ưu đãi xuất khẩu rất tốt nên mặt bằng giá cả cùng một chủng loại TS thì sẽ rẻ hơn Việt Nam từ 10 - 20%. Mặt khác, Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu vô cùng đa dạng về sản lượng và chủng loại. Khi Trung Quốc can thiệp mặt hàng nào vào thị trường thì các mặt hàng tương tự sẽ tự động rớt giá... Do đó, thị trường này nhập khẩu TS Việt Nam chỉ ổn định vài tháng trong năm, chủ yếu là vào mùa cấm khai thác, với các mặt hàng TS chất lượng thấp.

TÔM, CÁ TRA, CÁ BA SA VẪN LÀ CHỦ LỰC

Tư tưởng chủ đạo phát triển TS đến năm 2020 là tạo ra những bước đột phá để giải quyết mối quan hệ giữa sản xuất kinh doanh với môi trường sinh thái và nguồn lợi, giữa tăng trưởng kinh tế và hiệu quả kinh tế-xã hội-môi trường góp phần tạo ra sự hài hòa, hợp lý trong bức tranh tổng thể về kinh tế - xã hội nghề cá nước ta. Do tính chất liên hoàn, đồng bộ các khâu nghề cá nên cần phải tổ chức lại sản xuất ngành TS theo chuỗi giá trị sản phẩm từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến tiêu thụ nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới trong quản lý Nhà nước. Đồng thời, do thế giới vừa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, theo dự báo, sự gia tăng giá nhiên liệu là điều không thể tránh khỏi nên việc đột phá khâu nhiên liệu là một vấn đề có tính chiến lược quan trọng liên quan đến tổ chức lại sản xuất, chuyển dịch cơ cấu và xây dựng các tiêu chí lựa chọn công nghệ cho công nghiệp hóa nghề cá nước ta.

Ngoài ra, trong xu hướng nguồn lợi TS ngày càng suy thoái, môi trường ngày càng ô nhiễm, tư tưởng chủ đạo cơ bản là phát triển TS phải đi đôi với bảo vệ nguồn lợi, bảo vệ môi trường và an sinh xã hội, chủ động thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu...

PGS.TS Lê Tiêu Nga, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch TS

Từ trước đến nay, chiếm ưu thế về xuất khẩu TS của nước ta nói chung và ĐBSCL vẫn là tôm đông lạnh và cá tra, cá ba sa với tỷ lệ tương ứng trong tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 40% và trên 30%.

Theo VASEP, thị trường xuất khẩu trong năm 2010 và những năm tiếp theo con tôm sú vẫn là chủ lực và có thể đạt kim ngạch xuất khẩu 1,4 tỉ USD. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực VASEP: Bên cạnh đó, với việc đạt khoảng 50.000 tấn, 300 triệu USD kim ngạch xuất khẩu và nhu cầu thị trường thế giới ngày càng ưa chuộng, con tôm chân trắng sẽ là lợi thế của xuất khẩu TS của ĐBSCL và cả nước. Ông Nguyễn Hữu Dũng, cho biết: Việt Nam rất có lợi thế ở thị trường tôm chân trắng cỡ nhỏ do có lợi thế về nguồn lao động và có khả năng đạt sản lượng xuất khẩu khoảng 150.000 tấn. Tuy nhiên, để phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng ở ĐBSCL đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải có sự quan tâm đầu tư đúng mức từ công tác quản lý, đến nghiên cứu và triển khai sản xuất. Bởi hiện nay, giống tôm thẻ chân trắng phục vụ nuôi thương phẩm đang còn bị động, hầu hết là nhập khẩu (phần lớn từ Trung Quốc), công tác kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng về chất lượng và số lượng rất khó khăn. Bên cạnh đó, công nghệ nuôi tôm thẻ chân trắng ở Trung Quốc, Thái Lan đạt được ở trình độ cao, do đó chúng ta phải đối mặt với việc cạnh tranh về giá, thị trường tiêu thụ...

Cá tra Việt Nam vừa có sản lượng vừa có giá tốt là yếu tố thuận lợi cho sự phát triển thị trường. Năm 2010 và những năm tiếp theo, châu Âu tiếp tục dẫn đầu, Mỹ và châu Á là hai thị trường sẽ tiếp tục tăng mạnh trong nhập khẩu sản phẩm cá tra Việt Nam. Trong năm 2010, sản lượng cá tra xuất khẩu dự kiến đạt trên 500.000 tấn với giá trị khoảng 1,5 tỉ USD. Và phi lê vẫn sẽ là mặt hàng chủ lực trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của con cá tra. Tuy nhiên, theo VASEP, giá thành ngày càng cao đang tác động đến khả năng cạnh tranh của con cá tra trên thị trường thế giới. Chất lượng không đồng đều giữa các doanh nghiệp chế biến, giữa thị trường xuất khẩu đang là một rủi ro tiềm ẩn. Những vấn đề về an toàn vệ sinh thực phẩm, truy nguyên nguồn gốc; những rào cản thương mại mang tính bảo hộ ngày càng nhiều từ các nước nhập khẩu... đang là thách thức lớn đối với con cá tra và cả các đối tượng xuất khẩu TS khác.

GIẤY THÔNG HÀNH CHO XUẤT KHẨU

Hiện nay, hệ thống truy xuất và khả năng truy xuất của sản phẩm đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ thống kiểm soát nuôi trồng và chế biến thủy hải sản. Ông Nguyễn Phúc Thịnh, Phó Giám đốc Công ty Chuyển giao công nghệ quản lý đồng bộ (TMT), cho biết: Giai đoạn 1999 - 2009, các nhà nhập khẩu nước ngoài đã quan tâm rất nhiều đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ở khâu sản xuất của nhà máy chế biến thực phẩm và hệ thống các nhà phân phối, nhà bán lẻ... Từ những diễn biến hiện tại, có thể suy đoán rằng, giai đoạn 2010 - 2019, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và nhiều quy định khác sẽ được các nước nhập khẩu xiết chặt ở khâu nuôi trồng, tại các hộ chăn nuôi, nông trại. Bởi lẽ, theo lý giải của ông Thịnh, sự khai thác tài nguyên không kiểm soát của nhiều quốc gia trên thế giới có thể dẫn đến sự tiệt chủng của nhiều giống loài. Vì thế, nhu cầu bảo tồn thiên nhiên hoang dã trở nên cấp bách. Mặt khác, vì lợi ích kinh tế, nhiều người chăn nuôi có thể đưa vào quá trình sản xuất những hóa chất cấm, hoặc sử dụng hóa chất không đúng quy định. Điều này dẫn đến một trong những hệ quả là môi trường ngày càng ô nhiễm dẫn tới nguy cơ mất an toàn sản phẩm... Chính vì thế, để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong nước, đem đến sự công bằng trong thương mại toàn cầu (người nuôi, trồng, chế biến... phải có trách nhiệm với xã hội, với môi trường) nhiều rào cản thương mại (qui định áp dụng các tiêu chuẩn, bán phá giá, chống bán phá giá, dư lượng hóa chất, an toàn thực phẩm, tên gọi, xuất xứ...) được các nhà nhập khẩu đưa ra và kiểm soát ngày càng chặt chẽ. Trong bối cảnh này, chứng nhận Global GAP (Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu); ISO 22000 (chứng tỏ cam kết vệ sinh an toàn thực phẩm của doanh nghiệp) được xem như “giấy thông hành” cho TS ĐBSCL xuất khẩu thêm thuận lợi.

Theo ông Nguyễn Xuân Khôi, Giám đốc chứng nhận - Intertek Việt Nam, với Global GAP sản phẩm TS của Việt Nam có thể tự tin thâm nhập các kênh phân phối khó tính nhất của thế giới; đặc biệt là thị trường EU. Ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thủy hải sản Minh Phú, cho biết: Năm 2009, vì chưa có Global GAP, sản phẩm tôm của Minh Phú chỉ bán được ở một số siêu thị nhất định. Cuối năm 2009, Minh Phú được Intertek công nhận vùng nuôi, nhà máy chế biến tôm đầu tiên của ĐBSCL đạt chứng nhận Global GAP. “Chứng nhận này thực sự làm gia tăng giá trị, niềm tin của khách hàng đối với thương hiệu của Minh Phú”, ông Quang chia sẻ. Tiếp theo sau Công ty cổ phần Minh Phú, từ đầu năm 2010 đến nay, nhiều vùng nuôi cá tra ở ĐBSCL đạt chứng nhật Global GAP như: Công ty cổ phần Thủy hải sản Minh Phú, Công ty cổ phần NTACO (NTACO Corp), Công ty cổ phần Việt An (Anvifish), Trung tâm nghiên cứu sản xuất giống TS An Giang...

Còn ISO 22000, ông Nguyễn Ngọc Khoa, Giám đốc Phát triển kinh doanh Công ty Bureau Veritas Certification Việt Nam, cho biết: Đây là tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên triển khai áp dụng để chứng nhận hệ thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm. Lợi ích chủ yếu của ISO 22000 là tăng tính minh bạch, hợp lý hóa dây chuyền sản xuất, giảm thiểu các rủi ro đáng kể trong sản phẩm, kiểm soát có hiệu lực các quá trình nội bộ và giảm thiểu các nguy cơ sai lỗi... Đặc biệt, ISO 22000, ISO 9001, SA 8000, ISO 14001 (minh chứng trách nhiệm doanh nghiệp với môi trường)... được xây dựng trên cơ sở tương tự nhau. Vì thế, các hệ thống này có thể tích hợp với nhau để tăng hiệu quả, tính nhất quán và tối ưu hóa các cuộc đánh giá. Ngoài ra, tiêu chuẩn ISO 22000 có thể dễ dàng kết hợp với các bước áp dụng nguyên tắc HACCP và các chương trình tiên quyết khác để đảm bảo kiểm soát các mối nguy.

MINH LÊ

Bài cuối: Làm gì để phát triển thủy sản bền vững?

 

PGS.TS Lê Tiêu Nga, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch TS

Chia sẻ bài viết