Chiều 3-12, tại Nhà Quốc hội, Tổ 11 (gồm Đoàn đại biểu Quốc hội TP Cần Thơ và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Điện Biên) đã tiến hành thảo luận tại Tổ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu Quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Các vị đại biểu Quốc hội thuộc Đoàn đại biểu Quốc hội TP Cần Thơ gồm: ông Nguyễn Tuấn Anh, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội; bà Lê Thị Thanh Lam, Phó Trưởng đoàn chuyên trách; bà Tô Ái Vang, Phó Trưởng đoàn chuyên trách và ông Nguyễn Thanh Phương, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Cần Thơ, đại biểu Quốc hội TP Cần Thơ tham gia một số ý kiến.
Về hợp tác quốc tế, cơ chế, chính sách thu hút các nguồn tài trợ, dự án đầu tư nước ngoài
Ông Nguyễn Tuấn Anh đề nghị nghiên cứu, bổ sung nội dung chi tiết về hợp tác quốc tế, cơ chế, chính sách thu hút các nguồn tài trợ, dự án đầu tư nước ngoài cho xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để cụ thể hóa chủ trương Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24-1-2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, nhất là hợp tác quốc tế trong việc đầu tư, xây dựng hạ tầng và dịch vụ cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, phát triển các mô hình phát triển kinh tế cộng đồng, sản phẩm OCOP, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc...

Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh phát biểu.
Đối với các nội dung liên quan đến ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, đại biểu cũng đề nghị đánh giá thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin và mức độ tin học hóa trong quá trình triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia thời gian qua. Kết quả đánh giá sẽ là cơ sở để điều chỉnh chỉ tiêu, nhiệm vụ và các hoạt động ưu tiên giai đoạn 2026-2035, bảo đảm phù hợp với năng lực nhân lực và điều kiện thực tế của các cơ quan, đơn vị, địa phương trong bối cảnh mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hiện nay.
Về những “điểm nghẽn” về cơ chế, chính sách
Bà Lê Thị Thanh Lam cho biết qua báo cáo của Chính phủ có thể thấy kết quả thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn từ năm 2021 đến nay có sự khác biệt đáng kể. Từ tổng hợp chung, có thể thấy rõ những “điểm nghẽn” về cơ chế, chính sách: hệ thống hướng dẫn triển khai còn phức tạp, ban hành chậm; nhiều nội dung, đối tượng đầu tư chồng chéo; nguồn lực phân tán, nhiệm vụ trùng lặp, tạo ra nhiều khó khăn trong tổ chức thực hiện. Từ thực tế tại địa phương, đại biểu cho biết tỷ lệ vốn đối ứng của địa phương lên tới 1,5 lần vốn trung ương, trong khi các dự án thành phần nhỏ lẻ, manh mún, khó tập trung nguồn lực. Vì vậy, đại biểu tán thành với đề xuất giao mạnh hơn quyền chủ động cho địa phương trong giai đoạn 2026-2035.

Đại biểu Lê Thị Thanh Lam phát biểu.
Về dự thảo Nghị quyết tại điểm a, khoản 1, Điều 1 mục tiêu tổng quát đã xác định rõ định hướng phát triển kinh tế nông thôn theo hướng xanh, tuần hoàn sinh thái, gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, khi so với hệ thống mục tiêu cụ thể, các chỉ tiêu hiện hành chủ yếu tập trung vào thu nhập, giảm nghèo và hạ tầng; chưa phản ánh rõ chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Do đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo bổ sung vào nhóm mục tiêu số 5 các chỉ tiêu trung gian như: tỷ lệ hợp tác xã, tổ hợp tác ứng dụng công nghệ số; tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp OCOP được số hóa, truy xuất nguồn gốc… nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể, đồng thời phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026-2030.
Về nguồn lực và cơ chế đối ứng, theo đại biểu giai đoạn 2026-2030 dự kiến tổng mức vốn của chương trình là 1,23 triệu tỉ đồng, trong đó ngân sách địa phương chiếm 33%. Cơ cấu này thể hiện tinh thần phân cấp và tăng tính chủ động của địa phương. Song đại biểu cũng băn khoăn đối với các địa phương khó khăn - đặc biệt vùng dân tộc thiểu số, miền núi - khả năng cân đối ngân sách còn hạn chế. Nếu áp dụng mức đối ứng cao một cách cứng nhắc sẽ gây áp lực lớn, làm giảm tính khả thi, dễ dẫn tới triển khai hình thức, không đạt mục tiêu đề ra. Đại biểu kiến nghị Bộ tiêu chí nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2030 cần được thiết kế theo hướng đánh giá thực chất, linh hoạt theo vùng miền: giảm tỷ trọng các tiêu chí hình thức, tăng trọng số các tiêu chí về sinh kế, dịch vụ cơ bản, giảm nghèo đa chiều; bổ sung tiêu chí về công khai, minh bạch, sự tham gia của người dân và chuyển đổi số ở cấp xã. Từ đó điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn theo hướng phân tầng: địa phương có khả năng tự cân đối thực hiện đối ứng theo chuẩn chung; địa phương khó khăn giảm tỷ lệ đối ứng, tăng hỗ trợ từ ngân sách trung ương; địa phương đặc biệt khó khăn áp dụng mức hỗ trợ cao hơn. “Cách tiếp cận này sẽ giúp cho tiêu chí gắn với nguồn lực, mục tiêu gắn với khả năng thực thi, qua đó nâng cao hiệu quả và tính bền vững của chương trình trong thực hiện trong thời gian tới sẽ tốt hơn” - đại biểu Lê Thị Thanh Lam nhấn mạnh.
Thực tiễn triển khai vừa qua, trong các lĩnh vực đặc thù như y tế, giáo dục ở vùng khó khăn cho thấy, nếu đẩy mạnh xã hội hóa hoặc giao nhiệm vụ đối ứng quá cao cho địa phương sẽ không khả thi do thiếu doanh nghiệp và nguồn lực. Do đó, theo đại biểu cần cân nhắc phân bổ nguồn lực hài hòa, tăng linh hoạt cho các vùng khó khăn, bảo đảm kế thừa kết quả giai đoạn 2021-2025 và nâng cao hiệu quả cho giai đoạn 2026-2035. Mọi chương trình, chính sách của Chính phủ cuối cùng đều hướng tới nâng cao đời sống người dân; vì vậy, phân cấp, phân quyền rõ ràng, đi liền cơ chế hỗ trợ phù hợp, sẽ quyết định khả năng triển khai thực chất và hiệu quả.
Về quan điểm hợp nhất 3 Chương trình mục tiêu Quốc gia
Bà Tô Ái Vang cho biết về quan điểm hợp nhất 3 Chương trình mục tiêu Quốc gia hiện tại, bao gồm: giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, thành một chương trình thống nhất, sẽ mang lại nhiều lợi ích mang tính chiến lược. Bởi vì, khi tích hợp 3 Chương trình mục tiêu Quốc gia thành 1, sẽ giúp tập trung nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực hiệu quả hơn, kế thừa các chính sách hiện có, với cách tiếp cận đa chiều, phát huy sức mạnh tổng hợp để giải quyết đồng bộ các vấn đề về: kinh tế, xã hội, môi trường và an ninh quốc phòng ở cấp cơ sở, bảo đảm tính liên tục, ổn định, trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển với yêu cầu cao hơn, tốt hơn cho giai đoạn mới. Khi còn 1 chương trình duy nhất cũng sẽ tạo điều kiện cho sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả hơn giữa các bộ, ngành và địa phương, đồng bộ trong triển khai và thực hiện. Đây là bước đi chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả chính sách, tối ưu hóa nguồn lực và thúc đẩy phát triển toàn diện, bền vững ở các vùng nông thôn, miền núi và dân tộc thiểu số của Việt Nam.

Đại biểu Tô Ái Vang phát biểu.
Tại điểm a, khoản 1, Điều 1 quy định mục tiêu tổng quát về xây dựng nông thôn mới, đại biểu kiến nghị Ban soạn thảo Chương trình nghiên cứu và xem xét bổ sung cụm từ “nhằm nâng cao toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn” vào đoạn cuối “nhất là vùng chiến lược, biên giới, hải đảo”. Sau khi hoàn chỉnh như sau: “Xây dựng nông thôn mới hiện đại, thực chất, gắn với đô thị hóa và thích ứng biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế nông thôn theo hướng xanh, tuần hoàn, sinh thái, gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo; phát huy vai trò chủ thể của người dân, cộng đồng và các thành phần kinh tế; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, nhất là vùng chiến lược, biên giới, hải đảo nhằm nâng cao toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn”. Bởi vì xây dựng nông thôn mới là chương trình “lấy sức dân để lo cho dân”, do người dân làm chủ thể và người dân là đối tượng thụ hưởng trực tiếp mọi thành quả.
Về phát triển toàn diện khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đại biểu kiến nghị: ban soạn thảo Chương trình nghiên cứu và xem xét bổ sung cụm từ “Có sự liên kết chặt chẽ, nhằm giải quyết các thách thức đa chiều của vùng này nhằm” vào đầu của đoạn “phát triển toàn diện khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi”. Sau hoàn chỉnh như sau: “Có sự liên kết chặt chẽ, nhằm giải quyết các thách thức đa chiều của vùng này nhằm phát triển toàn diện khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, nhóm dân cư, nhất là vùng dân tộc thiểu số và miền núi so với vùng khác; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc thiểu số”. Bởi vì chương trình này bao gồm một loạt các mục tiêu, rất cần có sự liên kết chặt chẽ, nhằm giải quyết các thách thức đa chiều của vùng này, tạo nền móng cho sự phát triển bền vững, nâng cao tính tự lực, tự cường của cộng đồng người dân tộc thiểu số và miền núi, biến tiềm năng và lợi thế của vùng thành động lực cho sự phát triển.
Tại điểm b, khoản 1, Điều 1 quy định đến năm 2030 đạt 6 nhóm mục tiêu cụ thể. Theo đại biểu, 6 nhóm mục tiêu này có tính kế thừa và phát triển, phù hợp bối cảnh thực tiễn của nước ta hiện nay. Đại biểu quan tâm đến 2 chỉ tiêu: (1) Chỉ tiêu 1, về thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2030 phấn đấu tăng gấp 2,5-3 lần so với năm 2020. Trong đó, thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số bằng 1/2 bình quân chung của cả nước. Đại biểu băn khoăn về thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số đạt 1/2 bình quân chung của cả nước vào năm 2030. Bởi vì, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường ở các khu vực địa hình khó khăn, cơ sở hạ tầng kém phát triển, trình độ sản xuất còn hạn chế, cùng với nhiều tác động khôn lường từ thiên tai. Những yếu tố này tạo ra rào cản lớn trong việc tiếp cận thị trường, khoa học kỹ thuật và các dịch vụ xã hội. Đại biểu kiến nghị: để đạt được mục tiêu trên, các chính sách phải mang tính chất đột phá, tập trung nguồn lực mạnh mẽ hơn nữa vào các vùng khó khăn, mang tính tích hợp để bảo đảm hiệu quả thực chất của chương trình. (2) Chỉ tiêu 2, về tỷ lệ nghèo đa chiều của cả nước duy trì mức giảm từ 1 đến 1,5%/năm, phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vùng dân tộc thiểu số và miền núi xuống dưới 10%; tỷ lệ nghèo đa chiều ở xã nghèo giảm ít nhất 3%/năm. Theo đại biểu, chỉ tiêu này có thể khả thi vì dựa trên kinh nghiệm và thành tựu giảm nghèo của nước ta trong nhiều thập kỷ qua, được xem là một trong những quốc gia tiên phong và thành công nhất trong công tác xóa đói giảm nghèo trên thế giới; việc tích hợp 3 chương trình lớn, giúp tạo ra một hệ thống giải pháp toàn diện, từ hỗ trợ sinh kế, phát triển hạ tầng đến nâng cao năng lực cho người dân, đảm bảo hiệu quả tổng hợp cao hơn. Hơn nữa, Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết quan trọng, mang tính định hướng, để Quốc hội ban hành các nghị quyết, làm cơ sở để Chính phủ triển khai thực hiện, về một số cơ chế chính sách đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; chủ trương đầu tư về mục tiêu Quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển và Chương trình mục tiêu Quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo giai đoạn 2026-2035 kèm theo nhiều cơ chế, chính sách quan trọng, góp phần tích cực trong việc can thiệp mục tiêu giảm nghèo. Đại biểu kiến nghị: chương trình tích hợp phải đảm bảo phân bổ đủ và kịp thời nguồn lực ưu tiên, có chính sách hỗ trợ sản xuất, đào tạo nghề - giải quyết việc làm và phát triển hạ tầng một cách mạnh mẽ, đúng trọng tâm.
Tại điểm b, khoản 1, Điều 1 quy định đến năm 2030 đạt 6 nhóm mục tiêu cụ thể. Chỉ tiêu 6 ưu tiên giải quyết cơ bản một số vấn đề bức thiết, quan trọng trên địa bàn, đại biểu lưu ý đến 2 chỉ tiêu nhỏ sau đây: (1) Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết. Chỉ tiêu này có thể khả thi, vì đây là mục tiêu đã được quan tâm và triển khai trong các giai đoạn trước, nằm trong các dự án thành phần của các Chương trình mục tiêu Quốc gia hiện hành. Việc sắp xếp dân cư gắn liền với quy hoạch tổng thể quốc gia và quy hoạch vùng, là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã hội. Đại biểu kiến nghị: tính khả thi phụ thuộc vào việc xử lý các khó khăn, vướng mắc liên quan đến nguồn lực đất đai, hỗ trợ tái định cư, phù hợp với văn hóa của cộng đồng dân cư, gắn liền với công ăn việc làm và thu nhập để tạo sự đồng thuận và ổn định cuộc sống cho người dân, đặc biệt là ở những khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ. (2) 100% người dân tộc thiểu số, người nghèo có bảo hiểm y tế và được tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản miễn phí. Theo đại biểu, chỉ tiêu này có thể khả thi. Vì tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân của nước ta ước đạt 95,2% dân số vào năm 2025. Nhóm người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và người dân tộc thiểu số là đối tượng được Nhà nước hỗ trợ ngân sách mua thẻ bảo hiểm y tế.
Về tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản miễn phí: mục tiêu này phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước ta về việc miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế cho toàn dân, tạo “lá chắn an sinh” cho người nghèo. Dự thảo chính sách đang hướng tới từ năm 2027, người tham gia bảo hiểm y tế là đối tượng thuộc hộ cận nghèo, đối tượng người cao tuổi từ đủ 75 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, được áp dụng mức hưởng 100% chi phí khám chữa bệnh. Tuy nhiên, đại biểu kiến nghị: (1) “Tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản” không chỉ là có thẻ bảo hiểm y tế, mà cần quan tâm đến việc người dân được tiếp cận với các dịch vụ chất lượng của y tế. (2) Chương trình phải bảo đảm đủ nguồn nhân lực y tế và bảo đảm đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế ở vùng dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, để việc tích hợp và triển khai 6 nhóm mục tiêu (2026-2030) được thuận lợi và hiệu quả, Chương trình cần: (1) Xác định rõ một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính ở cả Trung ương và địa phương. (2) Xây dựng tiêu chí phân bổ vốn tích hợp, đảm bảo nguyên tắc ưu tiên các vùng khó khăn, nhưng vẫn ưu tiên cho các địa phương làm tốt để tạo động lực. (3) Đào tạo kiến thức tổng hợp về kinh tế, nông nghiệp, văn hóa, xã hội, để nâng cao năng lực cho cán bộ trực tiếp thực hiện chương trình.
Về việc xác định 4 nhóm mục tiêu cụ thể đến năm 2035 cho phép định hướng chiến lược dài hạn, liên tục, và bao trùm các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, an sinh, phù hợp với bối cảnh mới của đất nước. Đại biểu kiến nghị: (1) Xem xét quy định thời gian thực hiện các dự án, thay vì chạy đua với các mục tiêu ngắn hạn 5 năm. (2) Chính phủ sớm ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật với cơ chế điều phối rõ ràng, tránh xung đột pháp lý và gián đoạn trong phân bổ vốn. (3) Tăng quyền chủ động cho địa phương, cơ sở trong việc quyết định các hoạt động đầu tư cụ thể, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, đồng thời tăng cường công tác giám sát, đánh giá dựa trên kết quả đầu ra.
Về sự cần thiết ban hành Nghị quyết
Ông Nguyễn Thanh Phương cho biết việc kết hợp 3 chương trình thành 1 Chương trình cho giai đoạn 2026-2035 là cần thiết nhằm tập trung quản lý, tiết kiệm, tránh trùng lấp… theo trình bày của Chính phủ. Đại biểu thống nhất nhưng nghĩ rằng có một điểm quan trọng đó là tiếp tục đầu tư để các chỉ tiêu đã đạt được có thể bền vững và tiếp tục phát triển trong thời gian tới và hy vọng đến một lúc nào đó sẽ phát triển mạnh thêm chứ không bị dừng sau khi chương trình kết thúc.

Đại biểu Nguyễn Thanh Phương phát biểu.
Về mục tiêu, theo dự thảo Nghị quyết thì các mục tiêu cụ thể của Chương trình rõ, cụ thể và có thể nhận xét có tính khả thi cao. Tuy nhiên, đại biểu có góp ý chỉ tiêu tổng quát có thể điều chỉnh câu chữ mang tính kỹ thuật, mục tiêu tổng quát là mục tiêu mà kết quả của chương trình chỉ đóng góp vào để đạt một mục tiêu lớn hơn, chứ không phải mục tiêu sẽ đạt được khi kết thúc chương trình. Vì với một chương trình thì chỉ có thể góp phần hay đóng góp, để đạt được nội dung như mục tiêu nêu ra cần rất nhiều nội dung khác,…
Về nội dung, Chương trình có 2 hợp phần, hợp phần 1 có 10 nhóm nhiệm vụ và họp phần 2 có 5 nhóm nhiệm vụ. Đại biểu cơ bản thống nhất với các nhóm nhiệm vụ này. Tuy nhiên, đề xuất Ban soạn thảo nghiên cứu thêm có sự trùng lắp nào về nội dung của chương trình này với Chương trình khác không.
Về kinh phí, một điểm cần lưu ý là dự toán kinh kính rất lớn (giai đoạn 2026-2030 là 1,23 triệu tỉ đồng), trong số này ngân sách Trung ương chỉ bố trí được 100.000 tỉ đồng (8%), trong khi ngân sách các địa phương là 400.000 tỉ đồng (33%), lồng ghép với các Chương trình khác là 360.000 tỉ đồng (29%), tín dụng 22.686 tỉ đồng (2%) và doanh nghiệp và cộng đồng là 348.000 tỉ đồng. Với cách bố trí này cho thấy gánh nặng lên ngân sách đối ứng của các địa phương rất lớn và vốn huy động từ xã hội cũng rất lớn, nếu các địa phương không đủ sức đóng góp và huy động từ doanh nghiệp và cộng đồng không đủ thì sẽ thế nào, các mục tiêu có thể đạt được không. Các địa phương không chỉ đối ứng cho Chương trình này mà còn nhiều Chương trình khác. Nhìn chung, mỗi Chương trình mục tiêu Quốc gia vốn đối ứng của địa phương từ 22-33% là quá lớn và gánh nặng cho ngân sách địa phương, nhất là các địa phương có ngân sách thấp. Vì vậy, cần xem xét lại sao cho hợp lý cả về quy mô chương trình và năng lực đối ứng của các địa phương.
Bên cạnh đó, đại biểu kiến nghị xem xét có thể xác định nội dung nào của Chương trình từ ngân sách Trung ương, và nội dung nào từ ngân sách địa phương để việc đầu tư cho đầy đủ, tránh thiếu hụt do đối ứng không đảm bảo làm nội dung dự án không thực hiện được. Có thể nói nội dung phần cứng như hạ tầng, nhân lực, khoa học công nghệ... có thể từ ngân sách trung ương, còn lại như phát triển kinh tế, môi trường... là của địa phương. Rất có thể theo cách này thì sẽ thuận lợi.
ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TP CẦN THƠ