08/10/2025 - 10:32

“Lá chắn mềm” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở ĐBSCL

Bài 1: Nền gốc tạo nên “lá chắn mềm” 

Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác dân tộc là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài. Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có trên 17 triệu dân với 44 thành phần dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, dân tộc thiểu số (DTTS) có trên 1,3 triệu người, chủ yếu là dân tộc Khmer, dân tộc Hoa, dân tộc Chăm và các dân tộc khác. Thời gian qua, việc thực hiện chính sách dân tộc nơi đây không chỉ mang lại diện mạo mới cho vùng đất, mà còn góp phần củng cố lòng tin, tạo dựng “lá chắn mềm” vững chắc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hội nhập và phát triển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Bắc (Ảnh tư liệu)

Ở ĐBSCL, công tác dân tộc và chính sách dân tộc thời gian qua được triển khai đồng bộ, nhất quán theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng. Điều này thực tiễn đã chứng minh: vừa nâng cao đời sống đồng bào, vừa củng cố niềm tin và bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Chính từ đó, “lá chắn mềm” được hình thành - lá chắn từ lòng dân, từ sức mạnh văn hóa - chính trị bền chặt trong vùng đất giàu truyền thống cách mạng.

Chính sách dân tộc trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là “cội nguồn sức mạnh” của cách mạng Việt Nam. Người nhấn mạnh: "Nước ta là nước thống nhất, có nhiều dân tộc. Dân tộc nào cũng là con cháu Lạc Hồng, đều là anh em ruột thịt”. Quan điểm đó vừa thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, vừa là kim chỉ nam cho việc hoạch định và thực thi chính sách dân tộc của Đảng: lấy bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ làm nguyên tắc cơ bản.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh, công tác dân tộc phải xuất phát từ thực tiễn. Cán bộ làm công tác dân tộc phải gần dân, hiểu dân, tôn trọng phong tục, ngôn ngữ, tín ngưỡng của từng cộng đồng. Người căn dặn cán bộ phải “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với đồng bào, phải biết yêu thương, gắn bó, và nếu có thể, biết nói tiếng dân tộc. Trong thư gửi Đại hội các DTTS miền Nam năm 1946, Người viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc khác đều là con cháu Việt Nam... Chúng ta phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc luôn gắn liền với nhiệm vụ cách mạng chung: giải phóng dân tộc đi đôi với giải phóng giai cấp; nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm quyền làm chủ thực chất cho đồng bào DTTS, không chỉ trên danh nghĩa mà trong cả quyền lợi, nghĩa vụ và sự tham gia vào bộ máy chính trị. Người coi giáo dục, xóa mù chữ, đào tạo cán bộ dân tộc là con đường tự lực tự cường bền vững nhất; đồng thời, luôn cảnh báo phải chống tư tưởng dân tộc lớn, phân biệt đối xử, kiên quyết đấu tranh với mọi mưu toan chia rẽ khối đại đoàn kết.

Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định vấn đề dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Quan điểm nhất quán của Đảng là: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đều bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; thực hiện đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011) và được khẳng định, cụ thể hóa qua các kỳ Đại hội Đảng, nghị quyết và chương trình hành động. Điển hình như: Kết luận số 65-KL/TW ngày 20/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tập trung phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn. Giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc, tôn giáo gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại”. Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, nhấn mạnh: Phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; đảm bảo quyền bình đẳng, quyền được tiếp cận cơ hội phát triển của đồng bào DTTS.

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc, chính sách dân tộc, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013 và nhiều đạo luật liên quan; Chính phủ cụ thể hóa thành hệ thống chính sách. Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV, lần đầu tiên Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030. Tiếp đó, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 120/2020/QH14 về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021–2030, đánh dấu bước ngoặt lịch sử khi chính sách dân tộc trở thành một chương trình mục tiêu quốc gia độc lập.

Thực hiện nghị quyết của Quốc hội, ngày 14/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021–2030, giai đoạn I (2021–2025), với tổng vốn hơn 137.000 tỉ đồng. Đây là chiến lược cơ bản, lâu dài và cấp bách; là minh chứng sinh động cho sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào các DTTS, tạo động lực để đồng bào vươn lên, giảm nghèo bền vững, phát triển toàn diện, hòa nhịp cùng sự phát triển của đất nước.

Có thể khẳng định, từ khi thành lập đến nay, chính sách dân tộc của Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Từng giai đoạn lịch sử, chính sách dân tộc đều được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, gắn với mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Chính từ nền tảng tư tưởng và chính sách đó, công tác dân tộc, tôn giáo ở ĐBSCL đã trở thành trụ cột vững chắc, không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội mà còn bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

Những gam màu sáng

Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân tộc và chính sách dân tộc ở vùng ĐBSCL đạt được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên các lĩnh vực. Theo Vụ Tuyên truyền Công tác dân tộc, tôn giáo, Bộ Dân tộc và Tôn giáo, hệ thống chính sách phát triển kinh tế, đầu tư hạ tầng, hỗ trợ sản xuất, giải quyết việc làm, tín dụng ưu đãi, ứng phó biến đổi khí hậu, khắc phục thiên tai, bảo đảm an sinh xã hội… được triển khai đồng bộ, thiết thực. Qua đó, đời sống đồng bào các DTTS không ngừng được cải thiện; nhiều vấn đề căn bản như đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt, định canh định cư gắn với quy hoạch ổn định dân cư đã được giải quyết từng bước. Hạ tầng kinh tế - xã hội được ưu tiên đầu tư, diện mạo nông thôn vùng đồng bào DTTS thay đổi rõ rệt, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới. Đây là minh chứng sinh động cho tính đúng đắn, nhất quán trong đường lối dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

Một góc nông thôn mới xã Tập Ngãi, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh (cũ).

Bên cạnh phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên người DTTS được quan tâm thường xuyên; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào DTTS, vùng biên giới luôn giữ vững ổn định; khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố. Đồng bào các DTTS chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tích cực tham gia lao động sản xuất, hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước. Đây chính là nền tảng chính trị - xã hội vững chắc, là “lá chắn mềm” bảo vệ sự ổn định và phát triển của đất nước trong tình hình mới.

Thực tiễn ở tỉnh Trà Vinh (cũ) cho thấy rõ hiệu quả khi chủ trương của Đảng đối với đồng bào DTTS khi đi vào cuộc sống. Với hơn 32% dân số là đồng bào DTTS, trong đó đồng bào Khmer chiếm trên 31,5%, tỉnh ủy Vĩnh Long ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 8/10/2021 về phát triển toàn diện vùng đồng bào Khmer giai đoạn 2021-2030. Sau hơn 3 năm triển khai, hơn 26.170 cuộc tuyên truyền với trên 316.650 lượt người tham dự đã làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và đồng bào, nhất là người có uy tín, chức sắc tôn giáo. Kết quả, đời sống kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khmer của Trà Vinh có bước tiến rõ rệt: Đến năm 2024, 85/85 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 51 xã nâng cao, 9 xã kiểu mẫu; GRDP tăng trưởng 10,04%, đứng đầu vùng ĐBSCL; thu nhập bình quân đầu người đạt 94,37 triệu đồng/năm; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 0,87%.

Ở TP Cần Thơ (cũ), công tác dân tộc cũng đạt nhiều kết quả nổi bật. 100% ấp, khu vực có đường cứng hóa đến trung tâm xã; 100% hộ đồng bào DTTS được sử dụng điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ dùng nước sạch đạt 99%; 83/83 xã, phường, thị trấn có trạm y tế. Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo DTTS giảm nhanh, từ 113 hộ (1,14%) cuối năm 2022 xuống chỉ còn 29 hộ (0,29%) cuối năm 2024. Những con số ấy cho thấy sự lãnh đạo quyết liệt, sát thực tiễn của cấp ủy, chính quyền, đồng thời phản ánh sự hưởng ứng tích cực của đồng bào DTTS đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Được tặng "Nhà đại đoàn" kết, nhiều hộ DTTS ở TP Cần Thơ an tâm tìm kế sinh nhai và thoát nghèo.  

Theo Vụ Tuyên truyền Công tác dân tộc, tôn giáo, Bộ Dân tộc và Tôn giáo, bằng quyết tâm chính trị cao, bằng sự nỗ lực và chủ động của Trung ương, nhất là các địa phương vùng đồng bào DTTS ở ĐBSCL, vùng đồng bào DTTS đạt được nhiều kết quả khả quan. Điển hình như: tỷ lệ giảm nghèo trong đồng DTTS giảm quân đạt 2,2% năm, tỷ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông đạt 100%; tỷ lệ ấp có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa đến nay đạt 88,9%… Ở ĐBSCL, tỷ lệ trường, lớp học được xây dựng kiên cố trong vùng đồng bào DTTS đến nay đạt 92,9 %; tỷ lệ trạm y tế được xây dựng kiên cố đến nay đạt 98,7%; tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi đến trường đến nay đạt trung bình 99,1%; tỷ lệ học sinh trong độ tuổi học tiểu học đến trường đến nay đạt trung bình 98,7 %; tỷ lệ học sinh trong độ tuổi học THCS đến trường đến nay đạt trung bình 94,1%...

 Một góc giao thông nông thôn ở ấp Thới Trường 1, xã Cờ Đỏ, TP Cần Thơ. 

Những “gam màu sáng” trong công tác dân tộc ở ĐBSCL không chỉ phản ánh chính sách đúng đắn, mà còn minh chứng cho sức mạnh của lòng dân - sức mạnh bắt nguồn từ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và đường lối dân tộc nhất quán của Đảng. Chính sự đổi thay trong từng mái nhà, từng phum sóc đã tạo nên ánh sáng của niềm tin, biến công tác dân tộc thành nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết. Từ tư tưởng, chính sách đến hiệu quả thực tiễn, tất cả đã hợp thành nền gốc của “lá chắn mềm” - sức mạnh tinh thần bền vững, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và gắn kết Đảng với nhân dân trên vùng đất Nam Bộ.

(Còn tiếp)

THANH LONG

Bài cuối: Giữ vững “lá chắn mềm” từ lòng dân
Chia sẻ bài viết