07/04/2014 - 20:21

TS Lê Văn Vàng, Trưởng Bộ môn Bảo vệ Thực vật, Khoa Nông nghiệp & Sinh học ứng dụng - Trường Đại học Cần Thơ:

“Ưu tiên các biện pháp sinh học, an toàn...”

 

Hiện nay, vấn đề sản xuất, quảng cáo và việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) ở vùng sản xuất nông phẩm hàng hóa lớn của ĐBSCL chưa được kiểm soát chặt chẽ về công dụng cũng như chất lượng sản phẩm. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Lê Văn Vàng xung quanh vấn đề này.

* Vừa qua có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV nên mạnh dạn loại bỏ thuốc BVTV độc hại khỏi danh mục, ông có ý kiến gì về vấn đề này?

- Tôi nghĩ loại bỏ các loại thuốc BVTV độc hại ra khỏi danh mục là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc xác định một loại thuốc BVTV nào đó có độc hại hay không, có nên loại nó ra khỏi danh mục… cần có những nghiên cứu và đánh giá của các nhà quản lý và chuyên môn. Hằng năm, Bộ NN-PNT ban hành danh mục các loại thuốc BVTV được phép sử dụng, các loại thuốc hạn chế sử dụng và loại thuốc bị cấm sử dụng. Đây là cơ sở rất quan trọng, các đơn vị kinh doanh và bà con nông dân cần áp dụng đúng theo các danh mục này.

Trong đánh giá chất lượng sản phẩm nông nghiệp, tồn dư của hóa chất nông nghiệp, chủ yếu là thuốc BVTV trên nông sản là yếu tố quan trọng. Để hạn chế tồn dư của thuốc BVTV trên nông sản và trong môi trường, công tác BVTV cần phải thực hiện theo hướng tổng hợp và bền vững, trong đó ưu tiên các biện pháp sinh học và an toàn, việc sử dụng thuốc BVTV phải tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng.

* Vì sao nông dân chưa sử dụng nhiều thuốc BVTV sinh học, dù đã có nhiều khuyến cáo của cơ quan BVTV?

- Mặc dù có nhiều khuyến cáo của cơ quan BVTV về việc sử dụng thuốc BVTV sinh học thay cho thuốc BVTV hóa học, nhưng nhìn chung cho đến nay nông dân vẫn chưa sử dụng nhiều thuốc BVTV sinh học. Điều này có thể do một số nguyên nhân: Chủng loại và khối lượng của thuốc BVTV sinh học là ít hơn rất nhiều so với thuốc BVTV hóa học. Do chủng loại ít và đối tượng phòng trị hẹp, thuốc BVTV sinh học không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đối với nhiều chủng loại sâu bệnh hại cây trồng, dẫn đến nông dân buộc phải dùng thuốc BVTV hóa học. Mặt khác, do tập quán của nông dân thường thích phòng trị dịch hại cây trồng nhanh với hiệu quả càng cao càng tốt. Trong khi đó, hiệu quả của thuốc BVTV sinh học thường chậm và thấp hơn so với thuốc BVTV hóa học. Trong ngắn hạn, áp dụng các biện pháp sinh học để phòng trị dịch hại cây trồng thường có chi phí cao hơn, do mức độ bị thiệt hại (cả về năng suất và giá trị cảm quan của sản phẩm) cao hơn so với thuốc áp dụng thuốc BVTV hóa học. Trong khi đó, giá của nông sản sản xuất theo hướng sinh học và hóa học hiện tại là gần như không khác biệt nhau.

* Ông có thời gian nghiên cứu thuốc BVTV sinh học và ứng dụng hiệu quả trên cây trồng, theo ông hiện nay thuốc BVTV sinh học có khả năng thay thế thuốc hóa học chưa, vì sao ?

- Hiện nay ngay ở những nước phát triển như Mỹ, thuốc BVTV hóa học vẫn giữ vai trò chính trong phòng trừ dịch hại, thuốc BVTV sinh học vẫn còn chiếm một tỷ lệ rất thấp, đặc biệt là ở số lượng chủng loại, so với thuốc BVTV hóa học. Do số lượng chủng loại ít, thuốc BVTV sinh học chỉ có thể đáp ứng trên một số loại dịch hại cây trồng nhất định. Ngoài ra, để tránh sự kháng thuốc cần luân phiên sử dụng nhiều loại thuốc BVTV khác nhau, điều này càng làm giới hạn khả năng thay thế thuốc BVTV hóa học của thuốc BVTV sinh học.

Người dân chọn mua phân bón tại một cửa hàng vật tư nông nghiệp ở huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ. Ảnh: VĂN CỘNG 

Để thuốc BVTV sinh học có thể thay thế thuốc BVTV hóa học, ngay cả ở mức 50%, đòi hỏi phải nghiên cứu và phát triển thêm một thời gian dài nữa. Trong thời gian qua, hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực BVTV ở Bộ môn BVTV Trường Đại học Cần Thơ tập trung theo hướng sinh học, bền vững, an toàn và thân thiện với môi trường. Một số sản phẩm từ các công trình nghiên cứu của Bộ môn đã cho kết quả khá tốt. Tuy nhiên, việc phổ biến bằng hình thức thương mại hóa các kết quả nghiên cứu đạt được thì vẫn còn hạn chế. Song, một điều đáng mừng là bản thân thuốc BVTV hóa học, do sức ép của các biện pháp sinh học, cũng đã được phát triển theo hướng ngày càng an toàn và thân thiện với môi trường hơn. Trong tiêu chuẩn canh tác theo GAP, thuốc BVTV hóa học vẫn được phép sử dụng.

* Như vậy muốn thực hiện biện pháp BVTV an toàn cần phải làm gì, thưa ông?

- Để thúc đẩy việc sử dụng các biện pháp BVTV an toàn, theo hướng sinh học cần tạo ra thị trường cho sản phẩm nông nghiệp được canh tác theo hướng này. Cách khuyến khích tốt nhất là bằng lợi nhuận, khi người nông dân sử dụng thuốc BVTV sinh học thu được lợi nhuận cao (sản phẩm nông nghiệp dễ bán với giá cao) thì sẽ khuyến khích họ sử dụng thuốc BVTV sinh học. Ở khía cạnh khác, khi sản xuất nông nghiệp được đầu tư theo hướng tập trung, hình thành nên những vùng sản xuất chuyên biệt với diện tích canh tác lớn, người sản xuất cần phải tính toán kỹ lưỡng chi phí phòng trừ dịch hại và chất lượng cho sản phẩm, sẽ thúc đẩy việc áp dụng các biện pháp BVTV bền vững, sinh học và an toàn. Song song đó, thuốc BVTV sinh học cần phải được phát triển đa dạng về chủng loại để có phòng trị nhiều loại dịch hại cây trồng và luân phiên trong sử dụng.

* Nếu so sánh đối chiếu sản xuất nông nghiệp ở Nhật Bản hay một số nước tiên tiến, cách sử dụng thuốc BVTV ở nước ta có thể học hỏi, ứng dụng được gì?

- Sự khác biệt trong cách sử dụng thuốc BVTV giữa Nhật Bản hay một số nước tiên tiến với Việt Nam vẫn nằm ở yếu tố thị trường và cách thức sản xuất nhiều hơn là ở khía cạnh kỹ thuật. Do thu nhập bình quân trên đầu người cao, chi phí cho lương thực, thực phẩm chỉ chiếm một tỷ lệ thấp, người dân sẵn sàng mua sản phẩm nông nghiệp chất lượng, được canh tác theo hướng an toàn và thân thiện với môi trường với giá cao, nên khuyến khích người sản xuất áp dụng các biện pháp BVTV theo hướng sinh học an toàn để phòng trừ dịch hại. Sản xuất nông nghiệp ở các nước phát triển hầu hết theo kiểu trang trại với đầu ra là các siêu thị phân phối; giữa người tiêu dùng, người phân phối và người sản xuất có sự ràng buộc rất chặt chẽ. Để bán được sản phẩm người sản xuất bắt buộc phải canh tác theo quy trình được kiểm định nghiêm ngặt (như GAP), điều này làm cho ảnh hưởng tiêu cực của thuốc BVTV được giới hạn.

* Gần đây việc sản xuất kinh doanh thuốc BVTV sinh học quảng cáo khá nhiều. Ông nhận xét gì, làm thế nào nông dân nhận biết, tin cậy sử dụng?

- Đây là một tín hiệu tốt cho thấy khía cạnh sinh học đã có tác động lớn đến người sử dụng thuốc BVTV. Tuy nhiên, để các quảng cáo đúng thực chất với thông tin ghi trên sản phẩm, cơ quan chức năng cần có tiêu chí, biện pháp kiểm soát và chế tài chặt chẽ các chương trình quảng cáo về thuốc BVTV.

* Xin cảm ơn ông.

HỮU ĐỨC (thực hiện)

Chia sẻ bài viết