Cần Thơ là vùng đất trẻ dọc tây sông Hậu. Nơi đây đồng ruộng phì nhiêu, vườn tược xanh tốt, xóm làng trù phú. Do đặc trưng cư dân nhiều vùng miền cộng cư trên vùng đất mới, đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt ở giai đoạn khai khẩn hoang, đến đấu tranh chống ngoại xâm trong thế kỷ 19-20, cuộc sống lao động và chiến đấu đã hình thành kho tàng văn hóa phi vật thể, mà tục ngữ ca dao, hò, vè, truyện kể là những sản phẩm văn hóa đặc trưng tiêu biểu nhất. Riêng về ca dao ở miệt Cần Thơ rất phong phú, bởi nơi đây, dần về sau đã thành trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế của khu vực ĐBSCL.
Trước hết, có thể kể câu ca dao quen thuộc đã trở thành biểu tượng khi nói về đất Cần Thơ:
Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về
Ca dao có nội dung kể chuyện quê hương, đất nước, con người một vùng đất có khá nhiều ở miệt Cần Thơ. Những câu ca dao này gắn liền với địa danh lịch sử, con người, như:
Đất Cần Thơ nam thanh nữ tú
Đất Rạch Giá vượn hú chim kêu
Quản chi mưa nắng sớm chiều
Lên voi xuống vịnh cũng chèo thăm em
hay:
Đâu vui bằng xứ Kinh Cùng
Tràm xanh củi lục anh hùng thiếu chi
hoặc:
Ô Môn lúa tốt đầy đồng
Vàm Nhon, Ba Mít đượm nồng ý thơ
Em về Tân Thới bơ vơ
Ba Se em ở bao giờ thăm anh
ngoài ra còn có:
Trường Long nước trong con gái đẹp
Rạch Ông Hào cảnh lịch người xinh
Trong thời gian đi thực tế ở huyện Phong Điền (Cần Thơ)- xưa thuộc Châu Thành (cũ), Phong Phú (thời Pháp thuộc)- người viết bài này được gặp các bậc cao niên, các nhân sĩ trí thức, những người am hiểu về văn hóa dân gian và đời sống, lịch sử của vùng đất "gạo trắng nước trong". Theo các cụ, đặc điểm của ca dao, dân ca Nam bộ nói chung và Cần Thơ nói riêng là trữ tình và chân chất, ý tình thể hiện ra ngay trong câu hò tiếng hát, người nghe có thể hiểu liền câu chuyện được kể và liên tưởng đến đời sống cùng những sự kiện xưa qua từng câu ca. Tiêu biểu như:
Quả năm ngăn trong lòng son đỏ
Mấy lời to nhỏ bỏ bạn sao đành
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Tàu Tây kia kiệt máy, anh mới đành bỏ em!
hay:
Kinh Xáng mới đào, tàu Tây mới chạy
Thương thì thương đại, bớ điệu chung tình
Con nhạn bay cao khó bắn
Con cá dưới ao Quỳnh khó câu
Mấy câu trên có xuất xứ từ việc ở miệt Phong Điền giáp với vùng Ô Môn thời đó có những con kênh do người Pháp đào bằng xáng. Kinh đào bằng máy dài, thẳng băng và được đào theo kiểu "lấn dủi" cuốn chiếu. Chủ chiếc xáng đào thường là tư nhân người Pháp, được chính quyền thuộc địa thuê mướn làm những công trình dài hơi. Do đó, những ông Tây chủ xáng thường đem theo vợ con ở luôn dưới xáng. Chiều chiều, bà "đầm" là vợ ông Tây thường đứng sau xáng ngắm cảnh sông nước xứ "An Nam". Hình ảnh "bà đầm" và chiếc xáng (tàu Tây) đã đi vào ca dao như trên. Hiện nay ở Cần Thơ, địa danh Bà Đầm vẫn còn, ở xã Trường Xuân thuộc huyện Thới Lai.
Tôi còn được gặp ông Nguyễn Tấn Sĩ, nguyên là nhà giáo lão thành của Cần Thơ. Ông đã sưu tầm được một số câu ca dao của vùng Cần Thơ cho thấy sự chân chất hồn hậu và nếp sống xưa:
Bước lên cầu ván mỏng, miếng ván cong vòng
Thấy em mê bạc trong lòng hết thương
Bậu có thương qua
Khăn mù xoa đừng đội
Hát bội đừng mê
Cái dê đừng mắc
Tứ sắc đừng ham
Ruộng rẫy lo làm
Dẫu em làm thất, bậu giùm cho
Có thể nói, qua các địa danh được thể hiện trong ca dao trữ tình, có thể hình dung được chuyện đi lại và đời sống giao thương xứ Cần Thơ xưa:
Tàu số một chạy lên Vàm Tấn
Tàu số hai chạy xuống Cần Thơ
Tuổi ba mươi em cũng ở vậy mà chờ
Lỡ duyên chịu lỡ, cũng chờ cho được anh
hoặc:
Nước biếc non xanh
Người bạn lành khó kiếm
Đây em cũng hiếm
Chưa lựa được chỗ nào
Mảng lo mua bán ra vào Cần Thơ
Ký ức về một ngôi chợ đôi khi thể hiện chiều sâu và lịch sử của chợ:
Có ai qua chợ Lê Bình
Xin cho tôi gởi chút tình nước non
hoặc:
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
Đưa về tới chợ Tầm Vu
Mua một cây dù che nắng che mưa
hay:
Chợ Thốt Nốt có lập đài khán võ
Chợ Cờ Đỏ tuy nhỏ mà đông
Thấy em mua bán anh chẳng vừa lòng
Để anh làm mướn kiếm từng đồng nuôi em.
Đã ngót nghét một thế kỷ, người yêu ca dao có thể hình dung trước mắt cảnh vật, chợ búa, sinh hoạt thời lập đất ở chợ Cái Răng, ngày nay là thủ phủ của quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ:
Chợ Cái Răng xứ hào hoa
Phố lầu hai dải xinh đà quá xinh
Có trường hát cất rộng thênh
Để khi hứng cảnh thích tình hát ca
Những câu ca dao trên được sưu tập từ quyển "Nam kỳ phong tục nhân vật diễn ca" in vào năm 1909.
***
Những năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ, vùng Cần Thơ có khá nhiều câu ca dao mới, động viên, cổ vũ cho cuộc chiến vệ quốc. Thường những câu ca dao này mang tính lạc quan cách mạng, lời lẽ trong sáng, dễ hiểu, dễ nhớ, đã đi vào lòng nhiều thế hệ. Tiêu biểu như:
Khoai lang chấm muối ăn bùi
Có chồng vệ quốc thơm mùi ka-ki
hay:
Con ơi con ngủ cho say
Cha con đi giết sạch loài Lang Sa
Ca dao cũng phản ánh được tình hình, bối cảnh không gian thời chống Mỹ:
Cần Thơ đi dễ khó về
Mỹ đi bỏ xác, ngụy về tan thây
hay nhẹ nhàng lãng mạn:
Anh đi Long Phụng đã lâu
Khi về thiếu kẹp bồ câu em buồn
Lão nông Nguyễn Văn Cung (Hai Cung), hiện ngụ ở phường Long Tuyền, quận Bình Thủy là người thích sưu tầm ca dao. Ông thuộc khá nhiều tục ngữ, hò vè, ca dao miệt Phong Điền- Bình Thủy- Cần Thơ. Ông kể, năm 1948, lúc quân dân ta thắng trận Tầm Vu lịch sử, thu được khẩu đại bác 105 ly lần đầu tiên ở chiến truờng Nam bộ, đi đâu cũng nghe người ta hát câu này:
Ngồi buồn kể chuyện đánh Tây
Tầm Vu một trận diệt loài xâm lăng
Sợ gì thiết giáp xe tăng
Quân ta cướp súng thần công kẻ thù
Ông còn thuộc những câu chuyện thú vị quanh ca dao thời kháng chiến. Như khi địch tuyên truyền:
Đi với quốc gia vàng đeo có khúc
Đi với Bác Hồ cực khổ muôn năm
Dân ta đối lại:
Đi với quốc gia vàng đeo có lúc
Đi với Bác Hồ hạnh phúc muôn năm
Thời này cũng rất thịnh những bài vè, gồm những câu ngắn gọn, có vần, dễ đọc, dễ nhớ; nội dung thiên về cổ động, châm biếm chuyện thời sự. Tiêu biểu như vè trốn lính:
Năm nay "kinh tế"
Không tiền đóng thuế
Nước mắt ròng ròng
Gặp lính xách còng
Mạnh ai nấy chạy
Có khi vè cũng xuất hiện ở thể lục bát vốn căn bản là của ca dao:
Nhìn xem thế cuộc đổi dời
Hết cơn lạc nghiệp đến hồi gian nan
Lịch Tây nhằm năm rộn ràng
Chín trăm ba mốt khổ tràn khắp nơi
Đặc biệt thời chống Mỹ ở Cần Thơ có phổ biến một bài vè rất hay về chiến sĩ Tây Đô:
Thưa các đồng chí, thưa bà con
Tôi xin kể một chuyện vui
Hay cũng đừng khen, dở cũng đừng cười
Có một ngày nọ bộ đội về làng
Tui thấy súng tôi ham
Tía tôi nói: "Cho thằng này đi bộ đội"
Má tôi mới đem lòng lo sợ
Bắt tôi cưới vợ cầm chưn
Còn tôi nghe vậy run như là cù lét
Có một bữa nọ cả nhà đi vắng hết
Tôi cuốn đồ để lên xã đầu quân
Má tôi nghe bả rầu khóc thâu đêm
Tía tôi nói:"nó đi bộ đội cho nên người
Kể chuyện nầy các cô vui hơn
Có một bữa nọ Tây Đô về làng
Có cô nói yêu tôi rồi bỏ vào trong
Nhưng tôi chưa nghĩ tới chuyện riêng
Còn giặc Mỹ và tay sai bán nước
Tui còn chiến đấu đến cùng.
Có thể nói, như mạch nước ngầm vẫn âm thầm chảy suốt chiều dài lịch sử của đất Cần Thơ, ca dao và vè đã ghi lại khung cảnh và tâm tình của một thời quá vãng.
Xuân Nhi
Bài viết được tham khảo từ các tư liệu:
-Văn học Miền Nam Lục Tỉnh (Nguyễn Văn Hầu Nxb Trẻ 2012).
-Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam NXB Khoa Học- Xã Hội 2004.
- Ca dao tục ngữ chọn lọc- NXB Đồng Nai 2004 (Nam bộ).
- Địa chí Cần Thơ - TU&UBND tỉnh Cần Thơ 2003.