Ðể tăng hiệu quả phát hiện và chữa bệnh, các bác sĩ có thể yêu cầu bệnh nhân thực hiện một số kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh như chụp X-quang, chụp cắt lớp vi tính (chụp CT), chụp cộng hưởng từ (MRI)… Tuy vậy, lượng bức xạ từ những phương pháp chẩn đoán hình ảnh có thể đặt ra rủi ro sức khỏe nhất định đối với bệnh nhân.

Các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh hiện đại cho phép phát hiện, theo dõi và điều trị bệnh đạt hiệu quả cao hơn.
Phó Giáo sư Lionel Cheng, Trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Ða khoa Singapore, cho biết về cơ bản, lượng bức xạ phát ra từ mỗi lần chẩn đoán hình ảnh sẽ thay đổi đáng kể và phụ thuộc vào từng loại kỹ thuật. Ví dụ, lượng bức xạ điển hình phát ra trong quá trình chụp X-quang, quét mật độ xương hoặc chụp nhũ ảnh thấp hơn mức phát ra trong quá trình chụp CT hoặc chụp cắt lớp phát xạ Positron (PET). Ngoài ra, vị trí được chụp ảnh và thời gian chụp cũng quyết định lượng bức xạ mà bệnh nhân tiếp xúc.
Một số phương pháp chẩn đoán hình ảnh phổ biến:
1. Chụp X-quang. Kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh này sử dụng một dạng bức xạ điện từ có năng lượng cao để chụp ảnh chi tiết các cấu trúc cơ thể. Vì tia X có lượng bức xạ rất thấp, nên chụp X-quang phù hợp với hầu hết đối tượng.
+ Trường hợp chỉ định: Thường để phát hiện gãy xương, trật khớp, nhiễm trùng phổi và một số vấn đề ở bụng.
+ Ðối tượng không phù hợp: Phụ nữ mang thai, do tia X có thể ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của thai nhi.
2. Chụp CT. Kỹ thuật này sử dụng một máy quét lớn phát ra nhiều chùm tia X để tạo ra hình ảnh 3 chiều về các cơ quan, xương và mô bên trong cơ thể theo lát cắt ngang. Với công nghệ hiện đại này, bệnh nhân có thể được quét từ đầu đến chân chỉ trong 1 lần nín thở chưa đầy 20 giây.
+ Trường hợp chỉ định: Cần hình ảnh rõ ràng và chi tiết về các nội tạng.
+ Ðối tượng không phù hợp: Do đòi hỏi lượng bức xạ cao, chụp CT thường không được thực hiện trên trẻ em, phụ nữ mang thai và thanh niên, trừ khi thực sự cần thiết. Bệnh nhân hen suyễn, dị ứng hoặc suy thận cũng không phù hợp để chụp CT.
3. Chụp MRI. Kỹ thuật này cũng sử dụng một máy quét lớn, hình vòng nhưng thời gian chụp ảnh sẽ lâu hơn so với máy quét CT. Máy quét tạo ra sóng điện từ để thu được hình ảnh 3 chiều rất chi tiết về các nội tạng và có độ phân giải cao nhất trong các xét nghiệm hình ảnh.
+ Trường hợp chỉ định: Dùng cho những trường hợp rất cụ thể, như tìm kiếm tình trạng chèn ép thần kinh ở cột sống, khối u nhỏ ở gan và các chi hoặc các cấu trúc nhỏ như đường tiết niệu và ống mật.
+ Ðối tượng không phù hợp: Vì phải mất nhiều thời gian để có được hình ảnh chi tiết, chụp MRI không phù hợp cho người mắc chứng sợ không gian hẹp, người không thể giữ yên và theo dõi một số kiểu hít thở nhất định.
Chụp MRI không an toàn cho bệnh nhân có cấy ghép kim loại như kẹp, kim bấm, stent tim hoặc vật lạ bằng kim loại, vì chúng có thể bị nóng lên hoặc thậm chí di chuyển bên trong cơ thể.
4. Siêu âm. Ðây là một kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh an toàn và được sử dụng rộng rãi, không liên quan đến bức xạ. Nó sử dụng sóng âm tần số cao để tạo ra hình ảnh thời gian thực của các cơ quan nội tạng và mạch máu.
+ Trường hợp chỉ định: Dùng đánh giá mô mềm, bao gồm theo dõi sự phát triển của thai nhi trong thai kỳ, đánh giá các cơ quan bụng, phát hiện sỏi mật và kiểm tra lưu lượng máu trong mạch máu, hoặc sử dụng cho các thủ thuật có hướng dẫn như sinh thiết.
+ Ðối tượng không phù hợp: Không dùng khảo sát tình trạng xương, do siêu âm không xuyên qua xương. Siêu âm cũng không thể đi qua không khí như khí đường ruột, do đó, việc đánh giá bao tử, ruột non và ruột già bằng siêu âm có thể bị hạn chế.
Hiệu quả siêu âm cũng bị hạn chế trên các bộ phận sâu hơn trong cơ thể như tuyến tụy và động mạch chủ, đặc biệt là khi bệnh nhân béo phì (vì mô cơ thể làm suy yếu sóng âm khi chúng đi sâu hơn vào cơ thể).
5. Chụp PET. Ðây là kỹ thuật chụp quét toàn bộ cơ thể có tính chuyên môn cao. Trong đó, một loại thuốc nhuộm phóng xạ đặc biệt được tiêm vào cơ thể và bệnh nhân nằm trong máy quét, máy này sẽ phát hiện thuốc nhuộm khi thuốc nhuộm được các cơ quan khác nhau hấp thụ. Quá trình này mất khoảng 2-3 giờ, vì thuốc nhuộm cần thời gian để được các cơ quan hấp thụ trước khi quét.
+ Trường hợp chỉ định: Dùng phát hiện ung thư và sự di căn của ung thư, nhưng cũng có thể dùng để tìm nguồn lây nhiễm.
Ðối tượng không phù hợp: Phụ nữ đang mang thai và trẻ nhỏ.
AN NHIÊN (Theo CNA)