12/04/2025 - 09:04

Vị tướng anh hùng của sông nước Cửu Long 

Trung tướng Đồng Văn Cống (1918-2005) là một trong những vị chỉ huy có công lao to lớn trong việc xây dựng, thống nhất các lực lượng vũ trang Nam Bộ thời kỳ đầu 9 năm chống Pháp. Từ đó, sự nghiệp của ông chủ yếu gắn liền với quê hương Bến Tre và sông nước Cửu Long trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ cho đến đại thắng mùa xuân năm 1975 thống nhất nước nhà.

 

 

Từ chỉ huy du kích Tân Hào đến những chiến công vang dội

Sinh thời, mỗi lần tiếp chuyện chúng tôi đến phỏng vấn hay thăm hỏi, Trung tướng Đồng Văn Cống bao giờ cũng tươi vui nhiệt thành. Phong thái của một vị tướng dạn dày trận mạc vẫn toát lên sự giản dị, chân thành, gần gũi của một người lớn lên ở miệt vườn. Trong những câu chuyện, ông luôn nhắc về Bến Tre và miền Tây Nam Bộ với những kỷ niệm về quê hương, người thân, đồng đội bằng tình yêu thương tha thiết.

Từ phải sang: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Văn Cống, Thượng tướng Hoàng Cầm, Trung tướng Lê Văn Tưởng trong dịp hội ngộ ở TP Hồ Chí Minh. Ảnh: TL

Trung tướng Đồng Văn Cống sinh tháng 2-1918 trong một gia đình nông dân tại xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Ông cố quê ở Vĩnh Phúc, vì điều kiện mưu sinh mà năm Tự Đức thứ hai đã di cư vào Nam làm thuê kiếm sống. Ông nội và cha của ông cũng phải làm tá điền cho địa chủ.

Khi quân Pháp nổ súng tái xâm lược Nam Bộ, Trung tướng Đồng Văn Cống khi ấy là Bí thư Chi bộ xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm đã xây dựng đội du kích xã ngày 12-2-1946, với 36 người trang bị vũ khí thô sơ như súng săn, mã tấu, dao găm, lựu đạn. Chỉ trong thời gian ngắn, đội du kích đã trưởng thành vượt bậc, thu hút thanh niên các xã lân cận tham gia, với quân số lên 80 người. Đội du kích được nhân dân trìu mến gọi biệt danh “Bộ đội Tân Hào” hay “Bộ đội ông Cống” đã lập nhiều chiến công vang dội, như tiêu diệt một trung đội lính lê dương tại cầu bà Ba Ngỡi, đánh tan quân địch trú đóng ở chợ Hương Điểm, Bàu Dơi, Châu Phú,…

Nhìn thấy đội du kích Tân Hào lớn mạnh, Khu trưởng Khu 8 Trần Văn Trà đã quyết định thành lập Chi đội 19 và phân công Đồng Văn Cống làm Chi đội trưởng, hoạt động ở Bến Tre và các tỉnh kề bên. Điều đặc biệt là trong Chi đội 19 của Chi đội trưởng Đồng Văn Cống có nhiều chiến sĩ mang các quốc tịch Pháp, Nga, Đức, Nhật, Maroc, Algeria… Đây chủ yếu là những hàng binh từ Chiến tranh Thế giới thứ II vào nước ta đã được cảm hóa, giáo dục và tham gia chiến đấu, lập nhiều công trận. Sau này, ngày 12-2 kỷ niệm thành lập đội du kích Tân Hào được Tư lệnh Quân khu 9 chính thức công nhận là Ngày Truyền thống của Lực lượng vũ trang Bến Tre.

Sinh thời, ông kể rằng: “Chúng tôi vừa đánh giặc vừa cướp vũ khí của giặc để tự trang bị cho mình. Lúc ấy chưa có bộ đội chính quy, chỉ có dân quân du kích. Mọi thứ đều tự túc, chứ chưa có chế độ về khí tài, quân trang. Đơn vị tôi phát triển sớm nhất và mạnh nhất tỉnh Bến Tre cũng như toàn Khu 8. Sau đó, cấp trên giao tôi đi thuyết phục anh em, tổ chức biên chế các lực lượng quân sự ở Bến Tre thành 7 trung đội, rồi tách 4 trung đội thành lập Chi đội 19 do tôi làm chi đội trưởng, hoạt động ở Bến Tre - Gò Công, 3 trung đội còn lại thành lập Chi đội 20 hoạt động ở 2 tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long. Sang năm 1947, bộ đội phát triển nhanh, Bộ Tư lệnh Khu 8 tổ chức thành lập Trung đoàn 99 gồm 2 tiểu đoàn. Tôi được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 99 kiêm Tỉnh đội trưởng Bến Tre, cùng anh em liên tục chiến đấu”.

Chi đội 19 do ông Đồng Văn Cống chỉ huy đã đánh thắng nhiều trận, tiêu biểu như đánh đồn Lộc Thuận, chặn viện và diệt nhiều sinh lực một tiểu đoàn của Pháp ở Thới Lai, thu 100 súng, có nhiều trung liên. Mùng 2 Tết Nguyên đán năm 1947, Chi đội 19 vận động phục kích giữa ban ngày tiêu diệt 1 đại đội Pháp có xe thiết giáp yểm trợ, thu 150 súng, với nhiều trung liên, đại liên, bazooka, cối các loại và nhiều quân dụng. Đặc biệt, chiến công lớn nhất của Chi đội 19 mãi được lưu truyền là đánh chặn đà tiến công hùng hổ của Binh đoàn Cơ động lê dương Pháp khi chúng dự định càn quét miền Tây Nam Bộ, góp phần chặn đứng âm mưu tốc quyết tốc thắng của địch tại ĐBSCL…

“Nam Bắc thống nhất một nhà, lòng tôi xúc động vô cùng!”

Năm 1954, ông Đồng Văn Cống với vai trò Ủy viên Thường vụ Khu ủy, Tham mưu trưởng Phân Liên khu miền Đông do ông Trần Văn Trà làm Tư lệnh, đã tham gia ban liên hiệp đình chiến rồi đưa quân tập kết ra Bắc. Ông được phong quân hàm Đại tá, làm Tư lệnh Sư đoàn 330. Sau khi học bồi dưỡng quân sự ở Trung Quốc trở về, ông được cử làm Phó Tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn, Ủy viên Thường vụ Liên Khu ủy Khu III, Cục phó Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, tham gia chỉ huy mở tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.

Năm 1963, ông về lại chiến trường miền Nam đánh Mỹ, lần lượt được giao nhiều trọng trách: Tư lệnh Khu 8 và Khu 9, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Tư lệnh Quân đoàn Dự bị chiến lược trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ông còn là Tư lệnh tiền phương Quân khu 7, dẫn đầu một cánh quân sang đập tan tập đoàn diệt chủng Pol Pot giải phóng Phnôm Pênh. Ông được phong Thiếu tướng năm 1974, Trung tướng năm 1980.

Từ bưng biền xứ dừa Bến Tre và sông rạch Cửu Long Giang thời chín năm chống Pháp, “Bộ đội ông Cống” đã là nỗi kinh hoàng cho quân thù. Tài năng quân sự của người chỉ huy trẻ xứ dừa sớm bộc lộ, khẳng định qua từng trận đánh, chiến công. Ông là người lính đi lên vững chắc từng bước và xác lập vị trí lãnh đạo cấp đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, quân khu, góp phần thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp ở Nam Bộ. Đến những năm đánh Mỹ, cái tên Đồng Văn Cống với tư cách một trong những vị chỉ huy chủ chốt của Quân Giải phóng miền Nam, lại thường xuyên xuất hiện cả trên báo đài chính quyền Sài Gòn. Không ít giai thoại được truyền tụng quanh tên tuổi của ông. Đối phương nể phục. Đồng đội và những người lính quân giải phóng tự hào về ông.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông ở lại hậu cứ giữ quyền Chỉ huy Bộ Tư lệnh Miền kiêm Tư lệnh Quân đoàn Dự bị chiến lược. Sáng 1-5-1975, ông cùng đoàn quân chiến thắng sớm có mặt dinh Độc Lập lo tổ chức chuẩn bị đón Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh và Bộ Tư lệnh Miền vào tiếp quản thành phố. Sinh thời, ông kể: “Nhìn cảnh quần chúng xuống đường đón mừng thành phố giải phóng, đất nước hòa bình, Nam Bắc thống nhất một nhà, lòng tôi xúc động vô cùng. Sức mạnh của quần chúng lớn lắm. Với sự thâm nhập vận động của cán bộ hoạt động thành, khi tướng Dương Văn Minh chưa tuyên bố đầu hàng thì quần chúng cách mạng đã nổi dậy làm chủ hơn 40 khu vực trong thành phố. Giải phóng Sài Gòn là sự kết hợp giữa tấn công của bộ đội chủ lực với sự nổi dậy của các lực lượng quần chúng. Nhìn từng con đường, từng góc phố, từng ngôi nhà rợp bóng cờ sao, tôi cảm thấy rất mãn nguyện. Nhiệm vụ của người lính chiến đấu vì nền độc lập tự do của Tổ quốc đã thắng lợi. Có thể nói, đó là những giờ phút đẹp nhất trong cuộc đời tôi”.

Đất nước thống nhất chưa được bao lâu, chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, ông lại ra trận. Trước khi nghỉ hưu, ông là Phó Tổng thanh tra Bộ Quốc phòng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh năm 1990. Cách nay 20 năm, vào ngày 6-8-2005, ông qua đời ở tuổi 88 trong sự tiếc thương của mọi người, nhất là nhân dân và đồng đội miền sông nước Cửu Long. Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào năm 2011 và nhân dân Bến Tre lập đền thờ ông tại xã Tân Hào. Mỗi lần về đây thắp nén hương tưởng nhớ chiến tướng của bưng biền, lòng chúng tôi dâng lên nỗi xúc động tự hào.

PHAN HOÀNG

Chia sẻ bài viết