Năm 2025 đánh dấu tròn 30 năm ngày Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ (11/7/1995 - 11/7/2025 theo giờ Mỹ, tức 12/7/1995 - 12/7/2025 theo giờ Việt Nam), một dấu mốc đặc biệt có ý nghĩa trong quan hệ song phương, nhất là sau khi hai nước đã nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện, mở ra một giai đoạn mới hợp tác sâu rộng, thực chất và hiệu quả hơn nữa, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.

Các đại sứ Mỹ tại Việt Nam qua các thời kỳ và Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Nguyễn Quốc Dũng (thứ hai, từ trái sang). Ảnh: TTXVN
Vào một buổi sáng rực rỡ ánh nắng Hè tại thủ đô Washington D.C, 3 cựu Ðại sứ Mỹ tại Việt Nam đã tham dự cuộc tọa đàm kỷ niệm 30 năm ngày hai nước bình thường hóa quan hệ, thảo luận về mối quan hệ năng động và ngày càng phát triển giữa hai quốc gia từng ở hai bên chiến tuyến. Theo phóng viên TTXVN tại Washington, 3 cựu Ðại sứ Mỹ tại Việt Nam qua các thời kỳ - Michael Michalak (2007-2011), Ted Osius (2014-2017) và Daniel Kritenbrink (2017-2021) đã có những chia sẻ mang lại suy ngẫm về những thành công trong quá khứ và tương lai của mối quan hệ song phương, cùng nhau giải quyết những thách thức chung và nắm bắt cơ hội vì lợi ích của nhân dân hai nước.
Di sản nhân đạo - Nền tảng cho quan hệ song phương
Theo cựu Ðại sứ Kritenbrink, chính các hoạt động nhân đạo đã trở thành cầu nối đưa Việt Nam và Mỹ đến với quá trình bình thường hóa quan hệ, giúp hai nước bắt đầu đối thoại với nhau. Từ những vấn đề nhân đạo, hai nước đã bắt đầu xây dựng thiện chí.
Mỹ đã đầu tư một khoản ngân sách lớn để xử lý hậu quả chất độc da cam/dioxin. Với sự thúc đẩy của Thượng nghị sĩ Patrick Leahy và nhiều nghị sĩ khác, Mỹ đã tài trợ cho công tác rà phá bom mìn chưa nổ, cũng như hỗ trợ điều trị cho những người khuyết tật đang sinh sống tại 7 hoặc 8 tỉnh bị rải chất độc da cam nhiều nhất.
Ông Kritenbrink nhấn mạnh: “Tôi cho rằng những hoạt động đó đã góp phần xây dựng thiện chí to lớn. Trong thời gian làm Ðại sứ và cả sau này, tôi đã gặp rất nhiều người bạn và quan chức Việt Nam nhắc đến điều đó. Theo tôi, chính điều đó đã làm thay đổi thái độ của người Việt Nam đối với Mỹ. Ðó cũng là điều giúp hai bên bắt đầu đối thoại với nhau và tôi tin rằng những nỗ lực này đến nay vẫn giữ vai trò vô cùng quan trọng”.
Liên quan đến Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID), cựu Ðại sứ Kritenbrink chia sẻ đã từng rất lo ngại vào đầu năm nay khi có thông báo rằng nguồn tài trợ của USAID - vốn hỗ trợ nhiều chương trình nhân đạo - sẽ bị ngừng lại. Tuy nhiên, theo ông, tất cả các nguồn tài trợ đã được phê duyệt lại và đang tiếp tục được giải ngân. Ðiều đó cho thấy cộng đồng quốc tế và Chính phủ Mỹ đều nhận thức rõ tầm quan trọng của các chương trình này trong thời gian tới.
Cựu Ðại sứ Mỹ tại Việt Nam cho biết thường suy ngẫm về việc quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam đã tiến xa như thế nào - từ một cuộc chiến tranh khốc liệt và đau thương cách đây 50 năm đến việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao và hiện nay là đối tác chiến lược toàn diện. Ông chia sẻ: “Tôi từng nói với Ðại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam - ông Pete Peterson - rằng những gì chúng ta cùng đạt được là một phép màu. Nhưng ông ấy đã sửa lại: Không, đó là điều phi thường, không phải phép màu. Ðiều đó không phải là ngẫu nhiên, không phải là hành động của Thượng đế. Những gì chúng ta xây dựng được là kết quả của thiện chí, lòng can đảm và nỗ lực không ngừng nghỉ từ cả hai phía. Và chính điều đó là nguồn cảm hứng và động lực cho tôi đến tận ngày nay - rằng chúng ta phải tiếp tục công việc ấy”.
Vẫn theo cựu Ðại sứ Kritenbrink, hòa giải là điều vô cùng quan trọng. “Tôi nhớ khi Thượng nghị sĩ John McCain qua đời, tại Việt Nam, chúng tôi đã mở sổ tang để người dân Việt Nam đến chia buồn. Hàng nghìn người đã xếp hàng để ký sổ. Người đầu tiên trong hàng là một cựu chiến binh Việt Nam. Ông ấy đã yêu cầu gặp tôi vì muốn bắt tay tôi và nói trực tiếp rằng ông đến để bày tỏ sự ghi nhận đối với John McCain - một người lính từng chiến đấu chống lại Việt Nam, nhưng sau đó lại giúp dẫn dắt tiến trình hòa giải”. Theo ông, việc người dân Việt Nam tới nơi dựng bia kỷ niệm máy bay của ông McCain bị bắn rơi bên hồ Trúc Bạch thể hiện tình cảm và sự kính trọng họ dành cho cố Thượng nghị sĩ. Vì vậy, công cuộc hòa giải rất quan trọng và cần tiếp tục được duy trì.
Một nỗ lực có ý nghĩa đặc biệt trong tiến trình hòa giải, theo ông Kritenbrink, là việc hai nước mở rộng hợp tác trong tìm kiếm hài cốt quân nhân mất tích. Trước đây, Mỹ và Việt Nam chủ yếu phối hợp để xác minh thông tin về các quân nhân Mỹ mất tích, nhưng hai bên đã bắt đầu triển khai các hoạt động tìm kiếm mang tính song phương hơn, bao gồm cả việc xác minh những người Việt Nam mất tích trong chiến tranh.
Giáo dục - Điểm sáng trong quan hệ song phương
Ðối với cựu Ðại sứ Michael Michalak, giáo dục gần như là trọng tâm trong hành trình của ông ở Việt Nam. Trước khi sang Việt Nam nhận nhiệm vụ, ông đã đặt mục tiêu tăng gấp đôi số lượng sinh viên từ Việt Nam sang Mỹ học tập. Vào thời điểm ông rời Việt Nam, số lượng sinh viên Việt Nam sang Mỹ đã tăng gấp 3 và con số đó tiếp tục tăng. Tại Mỹ, Việt Nam là nguồn sinh viên lớn nhất từ ASEAN và là nguồn sinh viên lớn thứ 5 trên thế giới.
Theo cựu Ðại sứ Michalak, gần đây, 40 giáo sư từ 21 trường đại học khác nhau đã đến thăm Việt Nam như một phần của chương trình hợp tác học thuật quốc tế để hợp tác về các cách thức gửi nhiều sinh viên hơn từ Việt Nam đến Mỹ. “Mọi hiệu trưởng trường đại học đã đến Việt Nam đều nói với tôi và tôi chắc rằng họ cũng đã gửi lời nhắn đó đến tất cả các đại sứ khác: Hãy gửi cho chúng tôi nhiều sinh viên hơn nữa”.
Ông Michalak cho rằng mối quan hệ - đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo - đang được Việt Nam và Mỹ thúc đẩy thông qua quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, trong đó bao gồm nhiều nội dung then chốt liên quan đến hợp tác khoa học và công nghệ. Ông cho biết trong lễ kỷ niệm 1 năm hai nước nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, việc cung cấp đào tạo tiếng Anh cho sinh viên STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) và quan trọng hơn là thành lập Quỹ Công nghệ, An ninh và Ðổi mới quốc tế (ITSE) đã được đề cập tới. Ðiều này tạo cơ sở để tiến tới hợp tác nhiều hơn nữa trong các lĩnh vực chất bán dẫn, khoáng sản quý hiếm, phối hợp chính sách, hệ thống mạng truy cập vô tuyến mở...
Cựu Ðại sứ Michalak đã dẫn lại lời của Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định tiềm năng hợp tác của các đối tác Việt Nam và Mỹ trong lĩnh vực công nghệ cao như bán dẫn và trí tuệ nhân tạo (AI) là vô cùng lớn và có nhiều ý nghĩa trong thời kỳ mới, đặc biệt là sau khi hai nước nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện với hai trụ cột hợp tác đột phá là đổi mới sáng tạo và công nghiệp bán dẫn.
Hành trình trở thành đối tác thương mại hàng đầu
Theo nhận định của cựu Ðại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius, quyết định quan trọng nhất là việc Ðảng Cộng sản Việt Nam cách đây gần 40 năm quyết định về việc hội nhập nền kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới, tiến hành công cuộc Ðổi mới năm 1986. Kể từ đó đến nay, bất chấp mọi thăng trầm, Việt Nam vẫn kiên định với con đường hội nhập quốc tế toàn diện. Ðây chính là nền tảng cho mọi tiến bộ mà thế giới chứng kiến trong những năm sau đó.
Ông Osius cho rằng quyết định quan trọng thứ hai được phía Mỹ đưa ra vào giữa những năm 1990. Mỹ đã quyết định đàm phán một hiệp định thương mại song phương với Việt Nam, với nhận thức rằng điều đó sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trên thực tế, các điều khoản trong hiệp định thương mại song phương này đều được thiết kế nhằm giúp Việt Nam gia nhập WTO một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn.
Cựu Ðại sứ Osius nhận định một phần tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những thập kỷ qua được thúc đẩy nhờ dòng vốn đầu tư nước ngoài. Ông dẫn chứng rằng vào năm 1996 - thời điểm ông lần đầu đến Việt Nam - kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước chỉ ở mức vài trăm triệu USD. Tuy nhiên, đến nay, con số này đã đạt khoảng 132 tỉ USD, phản ánh đà tăng trưởng vượt bậc của mối quan hệ kinh tế song phương. Theo ông, quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Mỹ từ năm 1995, tiếp theo là việc ký kết hiệp định thương mại song phương vào năm 2002 và Việt Nam gia nhập WTO không lâu sau đó, đã góp phần tạo nền tảng cho nền kinh tế Việt Nam bứt phá mạnh mẽ. Ông cho rằng, năm 2008 là dấu mốc quan trọng khi các nhà đầu tư toàn cầu bắt đầu xem Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn, thể hiện niềm tin vào tiềm năng tăng trưởng dài hạn của quốc gia này. Chính phủ Việt Nam cũng đã có những cải cách quyết liệt nhằm hiện thực hóa dòng vốn đầu tư đó.
Ông Osius nhận định, Việt Nam đã chuyển mình từ một đối tác thương mại nhỏ trở thành đối tác thương mại lớn thứ 8 của Mỹ vào năm 2024. Ông dẫn lời Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Andrew Herrup, nhấn mạnh rằng Việt Nam đang đổi mới sáng tạo, gia tăng giá trị trong chuỗi sản xuất, tận dụng công nghệ mới như AI và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao để tiếp tục vươn lên. Ông cho rằng sự phát triển ấn tượng này là kết quả của một loạt các quyết định chiến lược trong suốt nhiều thập kỷ qua.
NGỌC QUANG