01/06/2025 - 09:50

Trung Ðông trên bàn cờ chiến lược Mỹ - Trung 

Trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị giữa Mỹ - Trung Quốc trở nên khó dự báo hơn bao giờ hết, giới chuyên môn cho biết Washington đang thúc đẩy chiến lược kéo gần quan hệ với vùng Vịnh thông qua lợi ích kinh tế dài hạn nhằm đẩy lùi ảnh hưởng ngày càng tăng của Bắc Kinh ở khu vực.

Trong chuyến thăm Trung Ðông, Tổng thống Trump tham dự Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - GCC tại thủ đô Riyadh của Saudi Arabia ngày 14-5. Ảnh: Oman Observer

Chiến lược lớn của Trung Quốc

Mặc dù duy trì quan hệ với Mỹ, cách tiếp cận lấy Washington làm trung tâm không còn được nhiều quốc gia vùng Vịnh chú ý. Thay vào đó, các cường quốc khu vực như Saudi Arabia, Qatar và Các Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất (UAE) thông qua chính sách đối ngoại đa phương bắt đầu tăng cường hợp tác với Trung Quốc. Ở thời điểm ảnh hưởng của phương Tây bị suy yếu trên khắp khu vực, Bắc Kinh đã dựa vào các mối quan hệ song phương, những nền tảng đa phương như Diễn đàn hợp tác Trung Quốc - các quốc gia Arab (CASCF) và hàng loạt thỏa thuận lớn về cơ sở hạ tầng và năng lượng để dần định vị mình là thế lực quan trọng với khu vực.

Sự trỗi dậy về chính trị - kinh tế của Trung Quốc ở Trung Ðông không phải ngẫu nhiên. Vị thế chiến lược hiện tại của Bắc Kinh là kết quả của gần 2 thập kỷ lập kế hoạch và thực thi các chính sách có chủ đích để thúc đẩy lợi ích quốc gia. Trong đó, trái ngược cách tiếp cận truyền thống của Mỹ, Trung Quốc tập trung vào sự tham gia thực dụng hơn là mối liên kết ý thức hệ, ưu tiên ổn định và không can thiệp công việc nội bộ nước khác. Kết hợp sự ủng hộ mục tiêu của người Palestine, Bắc Kinh đã củng cố sức hấp dẫn và tự thể hiện mình như "cường quốc thay thế" đáng cân nhắc ở khu vực vốn đang xói mòn niềm tin vào một nước Mỹ liên tục hậu thuẫn cho Israel.

Kể từ năm 2005, các dự án đầu tư và xây dựng của Trung Quốc tại Trung Ðông đạt tới 314 tỉ USD và Bắc Kinh đang trên đà trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Saudi Arabia, Qatar cùng UAE. Những năm gần đây, hoạt động xuất khẩu của các quốc gia Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC) bao gồm Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, Saudi Arabia và UAE cũng chuyển dần sang Trung Quốc khi chứng kiến sự sụt giảm ở thị trường Mỹ.

Năm 2023, Trung Quốc nhập khẩu khoảng 201 triệu tấn dầu thô và 18 triệu tấn khí tự nhiên hóa lỏng từ GCC, tương đương khoảng 1/3 và 1/4 tổng lượng nhập khẩu của nước này. GCC còn ký kết các thỏa thuận đầu tư mở rộng cho hoạt động dầu khí thượng và hạ nguồn, cũng như mạng lưới sản xuất và cơ sở hạ tầng theo Sáng kiến ​​"Vành đai, Con đường" (BRI) của Bắc Kinh.

Theo ước tính, trao đổi thương mại GCC với Trung Quốc đạt khoảng 298 tỉ USD, chủ yếu nhờ xuất khẩu dầu khí và đầu tư ngày càng tăng của Bắc Kinh vào cơ sở hạ tầng và công nghệ. Hiện tại, GCC kỳ vọng sự hỗ trợ công nghệ của Bắc Kinh giúp số hóa nền kinh tế theo khuôn khổ Sáng kiến Con đường tơ lụa kỹ thuật số (DSR). Là một trong 3 trụ cột chính nằm trong BRI, DSR được dự đoán tạo ra 600.000 việc làm trong lĩnh vực công nghệ vào năm 2030 và đóng góp 255 tỉ USD vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của GCC.

GCC còn chuyển sang mua vũ khí Trung Quốc khi đứng trước các quy định xuất khẩu vũ khí nghiêm ngặt và định giá quá cao của Mỹ. Ước tính, doanh số bán vũ khí của Trung Quốc cho Trung Ðông tăng 80% trong giai đoạn 2013-2023, chủ yếu là các thiết bị chống khủng bố, máy bay không người lái và tên lửa đạn đạo. Nhiều quốc gia còn hợp tác với Trung Quốc để phát triển ngành công nghiệp vũ khí riêng và coi đây là công cụ giúp củng cố vị thế trước mối quan hệ lợi ích với Mỹ.

Năm 2023, ảnh hưởng của Trung Quốc trở nên rõ nét khi làm trung gian cho thỏa thuận ngừng bắn giữa Saudi Arabia và Iran. Ðây là bước tiến quan trọng và được nhìn nhận như chiến thắng ngoại giao lớn của Trung Quốc. Nó cũng thúc đẩy thái độ thận trọng ở Mỹ, trong đó giới tinh hoa chắc chắn coi bước đi này là dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh đang muốn leo thang cạnh tranh địa chính trị với Washington ở thời điểm có nhiều nghi ngờ về hiệu quả "lá chắn an ninh" của Mỹ cũng như khả năng Nhà Trắng đang rút khỏi Trung Ðông.

Cùng lúc đó, việc Trung Quốc ủng hộ mạnh mẽ lệnh ngừng bắn ở Gaza và tinh thần đoàn kết với người Palestine đã củng cố thêm hình ảnh của nước này như tác nhân ngoài khu vực sẵn sàng ưu tiên lợi ích an ninh và bản sắc chính trị của thế giới Arab/Hồi giáo hơn là quan hệ với Israel. Như đã lưu ý, các quốc gia khu vực ngày càng coi trọng chính sách đối ngoại "bao trùm và không can thiệp" của Trung Quốc, đưa Bắc Kinh trở thành đối tác được ưa chuộng cho hợp tác kinh tế, chính trị và an ninh.

Vì vậy, có thể nói thái độ của Trung Quốc với cuộc chiến ở Gaza không chỉ là động thái cơ hội đơn thuần mà là một phần của chiến lược dài hạn rộng lớn liên kết các chính sách trong nước và sự tham gia của Bắc Kinh với thế giới Arab/Hồi giáo. Những diễn biến này báo hiệu sự thay đổi cơ bản trong động lực khu vực, đặt ra thách thức trực tiếp đối với ảnh hưởng truyền thống của Mỹ và định hình lại bối cảnh địa chính trị theo hướng có lợi cho Trung Quốc.

Bước đi mới của Mỹ

Trước thực tế trên, trong chuyến công du tới Saudi Arabia, Qatar và UAE hồi giữa tháng 5, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đạt thỏa thuận trị giá 600 tỉ USD với Riyadh, trong đó bao gồm giao dịch vũ khí và nhiều khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng năng lượng cùng phát triển trí tuệ nhân tạo (AI). Ở điểm đến tiếp theo, Tổng thống Trump đạt được cam kết kinh tế lịch sử với tổng giá trị ít nhất 1.200 tỉ USD, bao gồm thỏa thuận mua máy bay thương mại với Boeing, các thiết bị chống máy bay không người lái cũng như đầu tư vào công nghệ lượng tử tiên tiến.

Trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 46 vừa diễn ra tại Kuala Lumpur (Malaysia), Hội nghị Cấp cao lần hai giữa ASEAN và GCC đã được tổ chức. Năm 2023, GCC là đối tác thương mại lớn thứ 7 của ASEAN với tổng kim ngạch thương mại hai chiều đạt 130,7 tỉ USD. Đáng chú ý là tại đây, ASEAN, GCC và Trung Quốc đã lần đầu tiên tổ chức Hội nghị Cấp cao nhằm tạo nên mô hình hợp tác độc đáo trên thế giới.

Trong khi đó tại UAE, Tổng thống nước chủ nhà Mohamed bin Zayed tái khẳng định kế hoạch đầu tư 1.400 tỉ USD vào Mỹ trong thập kỷ tới. Hai bên đặc biệt chú trọng thỏa thuận AI với cam kết của Abu Dhabi đầu tư vào các trung tâm dữ liệu tại Mỹ nhằm đa dạng hóa nền kinh tế vốn phụ thuộc vào dầu mỏ.

Theo giới quan sát, kết quả hữu hình từ chuyến đi Trung Ðông của Tổng thống Trump mặc dù được coi là quan hệ đối tác kinh tế nhưng cũng phục vụ mục đích kép là tăng cường phụ thuộc lẫn nhau, đưa ảnh hưởng của Washington tiến sâu vào các lĩnh vực công nghệ và quốc phòng của khu vực. Cách tiếp cận này phản ánh sức mạnh liên minh an ninh và quốc phòng toàn diện chính thức giữa Mỹ với các nước Trung Ðông. Nó cũng cho thấy lập trường ưu tiên của vùng Vịnh ở thời điểm không quốc gia nào khác ở hiện tại có thể sánh với Mỹ về chuyên môn, nguồn lực và cam kết cần thiết để thực hiện các tham vọng của vùng Vịnh trong một số lĩnh vực then chốt như phát triển AI, chất bán dẫn và sản xuất chip.

Ðáp ứng các lợi ích chiến lược của vùng Vịnh theo cách mà Trung Quốc bị hạn chế, Washington muốn tận dụng các động lực kinh tế để tạo ra liên kết chiến lược dài hạn, từ đó ngăn chặn ảnh hưởng của Bắc Kinh ở Trung Ðông.

Ðầu tiên, với việc tăng cường quan hệ kinh tế với vùng Vịnh, Mỹ đặt mục tiêu loại bỏ ảnh hưởng của Trung Quốc (cả về vật chất và tài chính) bằng cách cung cấp mạng lưới an ninh, đầu tư và hợp tác công nghệ thay thế.

Sau nữa, thông qua việc củng cố năng lực của các đối tác như Saudi Arabia, UAE và Qatar, Washington đồng thời tăng cường sức mạnh đối trọng trong khu vực trước Iran. Ðặc biệt, Tổng thống Trump trong chuyến đi đã gặp người đứng đầu chính phủ lâm thời Syria và quyết định nới lỏng lệnh trừng phạt Damascus.

Cuối cùng, những tính toán chiến lược trong chuyến thăm Trung Ðông của Tổng thống Trump báo hiệu động thái mới nhằm khôi phục tinh thần của Hiệp định Abraham do Mỹ làm trung gian nhằm bình thường hóa quan hệ giữa Israel và thế giới Arab. Theo đó, bất chấp lo ngại của Israel về việc bị gạt sang bên lề, những động thái của Nhà Trắng đều có điểm chung làm sâu sắc thêm sự hội nhập của Nhà nước Do Thái đối với khuôn khổ hợp tác và lợi ích ở khu vực.

Nền tảng của tất cả lập trường này là sự thay đổi có chủ đích, từ dựa vào sức mạnh quân sự sang sử dụng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế lâu dài và mối liên kết về mặt thể chế để tạo ra ảnh hưởng lớn hơn của Mỹ trong khu vực. Tuy nhiên, chiến lược kéo vùng Vịnh lại gần và hạn chế ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc có thể bị đe dọa nếu các thỏa thuận không thể hiện thực hóa mong đợi của đối tác. Một khi hy vọng tan vỡ, hậu quả có thể thúc đẩy khu vực tìm kiếm nhiều khoản đầu tư hơn từ Trung Quốc để thực hiện các cải cách kinh tế đầy tham vọng.

MAI QUYÊN (Tổng hợp)

Chia sẻ bài viết