Hồ Kiên Giang
Ở miền Tây Nam Bộ thời kháng chiến chống thực dân Pháp, báo Tiếng súng kháng địch (tiền thân của báo Quân khu 9 ngày nay) là cơ quan tuyên truyền do Phòng Chính trị Chiến khu 9 quản lý. Trong thời điểm thiếu thốn mọi thứ, chiến tranh ác liệt, tờ báo ra đời đã đáp ứng nhu cầu của bộ đội và nhân dân, kịp thời cổ vũ tinh thần kháng chiến, kiến quốc.

Bìa báo Tiếng súng kháng địch số đặc san kỷ niệm 2 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/1947).
Theo Lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến (tập 1, giai đoạn 1945-1954), ngày 26-8-1945, chính quyền cách mạng Cần Thơ thành lập. Ông Nguyễn Văn Lộc, đại diện Mặt trận Việt Minh vận động, giác ngộ 3 công nhân là Nguyễn Bá, Nguyễn Tấn Bang và Trần Thành Lâm của Ấn quán An Hà, do ông Đỗ Văn Y và Trần Đắc Nghĩa điều hành, tách ra một bộ phận in ấn phục vụ cách mạng. Ngày 15-9-1945, bộ phận này mang theo máy bê-đan (Pédade), vài chục hộp chữ các cỡ, rời Cần Thơ trên ghe cà dom do ông Bùi Công Trừng phụ trách (sau đó ông Hồ Bá Phúc thay), có nhiệm vụ in phiếu bầu cử Quốc hội khóa I ngày 6-1-1946 để phân phát cho các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
Cuối tháng 12-1945, ghe dừng tại xã Vĩnh Tuy, huyện Gò Quao, tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang). Tháng 5-1946, ghe về xã Tân Lập, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Hậu Giang). Lúc này, tỉnh Cần Thơ cho ra mắt báo Hiệp Nhứt của Hội Liên hiệp Quốc dân miền Tây Nam Bộ do ông Ngô Sĩ Hùng phụ trách. Tháng 12-1946, báo Hiệp Nhứt phát hành được 3 số cùng bộ phận in chuyển sang Quân đội thuộc Phòng Chính trị Chiến khu 9 quản lý, di dời về xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Hậu Giang).
Để kịp thời tuyên truyền cuộc kháng chiến của quân và dân miền Tây Nam Bộ, ngày 10-1-1947, báo Tiếng súng kháng địch ra số đầu tiên tại nhà ông Năm Chanh, ấp Cái Rắn, xã Xà Phiên. Tên tờ báo do đồng chí Phan Trọng Tuệ, Chính trị bộ Chủ nhiệm (Chính ủy) Chiến khu 9 đặt. Cùng góp sức ra số báo này có bộ phận in thuộc nhà thuốc Nguyễn Khoa Giai (thị xã Rạch Giá), do công nhân Phan Văn Khôi và Lý Văn Giàu quản lý, được chính quyền cách mạng điều động mang máy bê-đan, trên 200kg chữ các loại về căn cứ nhập vào báo Tiếng súng kháng địch.
Sinh thời, có lần ông Nguyễn Xuân Hoàng, Chủ bút báo Tiếng súng kháng địch đầu tiên (sau này là Trung tướng, Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng) kể: “Những tháng đầu năm 1947, cơ quan chuyển về đóng tại miễu Hội đồng Suông, xã Ninh Hòa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Đội ngũ làm báo đủ các vị trí và khá hùng hậu như: Ban Biên tập có Quang Phong (Nguyễn Trí Quang), Nguyễn Văn Sáu (Rum Bảo Việt), Ung Văn Khương, Hồ Bá Phúc, Lê Đức Quãng (Bảy Kiếng); thư ký tòa soạn có các họa sĩ: Nguyên Hiêm, Vũ Ngân, Lê Minh Hiền, Lương Nhân; phóng viên có Dương Chiến, Nguyễn Việt Phục, Nguyễn Viết Hùng, Nguyễn Văn Thanh, Huy Hùng, Bùi Quang Triết (Xuân Vũ), Truy Phong (Dương Tấn Huấn), Nguyễn Lục Hà (tức nhà văn Hồng Châu, sau đó là vợ nhà thơ Nguyễn Bính), Phạm Minh Tài (nhà văn Sơn Nam), Trương Khương Trinh (nhà thơ, soạn giả cải lương Kiên Giang - Hà Huy Hà), Phan Thanh Viễn (nhà thơ Viễn Phương); họa sĩ và điêu khắc có Nguyễn Phước San, Lương Nhân, Hạ Giêng Bình, Lê Tấn Thấm, Nguyễn Phước Sanh, Lê Minh Hiền (Nê Hi); nhiếp ảnh có Nguyễn Duy Khánh…”.
Cũng theo ông Nguyễn Xuân Hoàng, đối với nhà in, bộ phận máy có Nguyễn Tấn Bang, Nguyễn Bá, Trần Thành Lâm, Tô Hùng Vĩ, Nguyễn Thành Lập, Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Văn Điểm, Nguyễn Văn Thìn, Huỳnh Thành Lạc, Trương Ngọc Thạch, Nguyễn Bá Sơn, Vũ Mạnh Thường; bộ phận sắp chữ có Phan Văn Khôi, Lý Văn Giàu, Bào Văn Khoa, Lê Văn Lân, Trần Thành Nam, Nguyễn Thành Long, Trần Văn Còn, Lê Văn Thanh, Nguyễn Văn Sinh. Đặc biệt, các anh Lê Văn Cứng, Trần Văn Đức, Trần Đức Vân và chị Nguyễn Thị Hồng Hoạt của báo Vì Chúa, vì Tổ quốc thuộc Ủy ban Công giáo Kháng chiến Nam Bộ sang tập huấn rồi ở lại. Ngoài ra, báo có bộ phận tiếp liệu do Trần Thành Trai (Trần Văn Chức) phụ trách; phát hành có Đỗ Tấn Xưa, Nguyễn Văn Nguyên, Ngô Văn Dương, Trần Văn Tường, Võ Văn Ngưu.
Báo Tiếng súng kháng địch ra mỗi tháng 3-4 kỳ, in 8 trang, khổ 25x40cm, số lượng 2.000 tờ, phát hành đến các đơn vị bộ đội và nhân dân trong Chiến khu 9. Riêng số đặc biệt tăng trang như: Mừng Đảng, mừng Xuân; kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; Nam Bộ kháng chiến; Nam kỳ khởi nghĩa…
Ví như số kỷ niệm 2 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945-19/8/1947), báo Tiếng súng kháng địch in 32 trang, khổ 25x40cm. Báo in bìa giấy trắng, dày, láng; tranh vẽ, bản nhạc cũng như các bài dùng “tít” bằng chữ kiểu đều khắc trên cây lòng mức sắc cạnh như bản kẽm. Nội dung báo lúc bấy giờ ngoài tin chiến sự trên địa bàn, tình hình trong nước và thế giới, xã luận, tùy bút còn tăng cường phóng sự, ký sự, truyện ngắn, thơ, nhạc, minh họa, ký họa, chuyên mục trào phúng “Cười mỉm chi… cọp” châm biếm địch ký tên “Bazooka” (tên khẩu súng của Pháp ta đánh và thu trên chiến thường đầu tiên)… Đồng thời, báo cổ vũ người viết ở các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội gửi bài cộng tác ngày càng nhiều nên phong phú nội dung, đa dạng thể loại.
Cuối năm 1947, báo rút gọn lại thành Kháng địch, bỏ từ Tiếng súng. Số báo mang tên mới đăng Lời ngỏ của tòa soạn giải thích Kháng địch bao hàm ý nghĩa là kháng địch toàn dân, toàn diện, trường kỳ. Như sau trận Tầm Vu lần thứ 4, ngày 19-4-1948, ta thu pháo 105mm, báo Kháng địch tập trung mừng chiến thắng này với những tin, bài như: “Đại bác 105mm”, “Tôi ra bưng biền”, “Kính gửi đồng bào miền Tây”, “Mặt trận”, “Người tráng sĩ miền Tây”, “Tầm Vu vang dội”, “1.000 ngày kháng chiến”... Bên cạnh đó còn có “Chiều Tầm Vu” và “Tầm Vu” (thơ), “Chiến thắng Tầm Vu” (ca khúc), ký họa, tranh biếm họa…
Đặc biệt, ngay khi vừa ra mắt tên mới, báo Kháng địch tổ chức cuộc thi sáng tác văn học nhằm phát hiện, tập hợp văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến phục vụ cách mạng. Trong cuộc thi đó, Truy Phong đạt giải nhất tập thơ “Dân quê kháng chiến” và giải nhì tập văn xuôi “Mấy phóng sự về kháng chiến”; Nguyễn Trọng Bính (nhà thơ Nguyễn Bính) từ Chiến khu 8 về Chiến Khu 9 đã tham gia và đạt giải nhì với tập thơ “Sóng biển cỏ” và bài thơ “Nô-men”; Sơn Nam đạt giải ba tập thơ “Lúa reo”... Sau đó, Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam bộ tổ chức Giải thưởng Văn nghệ Cửu Long, Truy Phong đạt giải nhất tập thơ “Lòng quê” (sau sửa lại “Tấm lòng quê”), Viễn Phương đạt giải nhì trường ca “Chiến thắng Hòa Bình”, Sơn Nam đạt giải nhất truyện ngắn “Bên rừng cù lao Dung” và giải nhì truyện ngắn “Tây đầu đỏ”... Như vậy, ngay từ năm đầu thành lập báo Tiếng súng kháng địch trong những năm tháng chiến tranh, đã có nhiều nhà báo trở thành tên tuổi lớn trên văn đàn với các tác phẩm có giá trị, ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc mãi sau này.
Nhà báo Quang Hảo chia sẻ: “Khoảng tháng 8-2014, nghĩa là trước khi nhà thơ, soạn giả Kiên Giang - Hà Huy Hà qua đời, anh đến thăm và tặng tôi bản thảo viết về nhà thơ, nhà báo Truy Phong nhưng chưa kịp đặt tên, không bố cục và theo lối tuổi già nhớ đâu ghi đó. Trong tập này có đoạn: “Hồi công tác chung ở Chiến khu 9 suốt 9 năm chống Pháp, tôi và anh Truy Phong cùng làm báo Tiếng súng kháng địch. Phóng viên vẫn phải xông vào trận mạc. Nhiều khi đứng ngâm mình dưới hầm công sự ngập nước, chồm người lên miệng hầm quan sát chiến trường đang giao tranh mà ghi chép. Khi máy bay Pháp ào tới ném bom thì hụp người xuống tránh. Có lần chở chữ trên xuồng đi đúc bản kẽm để in báo, bị bom Pháp đánh một trái rơi trước mũi xuồng. Xuồng lật úp, mọi người trên xuồng lộn nhào xuống kênh nước sâu. Khi máy bay Pháp bay khỏi, tụi tôi liền chạy vào nhà dân mượn thau, rổ để xúc chữ. Biết chuyện, dân cả xóm trên, xóm dưới kêu nhau xách rổ, thau tới và cùng lặn hụp xuống nước xúc bùn lên đãi lấy từng con chữ. Cứ vậy mà cứ xúc tới xúc lui cả một đoạn kênh dài, mất cả buổi mới lấy được đủ các con chữ để sắp lại. Tôi nhớ những lần cùng Truy Phong lội nước bao đăng vớt cá cho bếp ăn tập thể dưới cái lạnh cắt da. Tình bạn văn giữa chúng tôi ngày càng gắn bó. Hai người thường chia nhau từ tờ giấy, cây viết cho tới thẻ đường, hột muối… trong những năm chiến tranh gian khổ. Anh Truy Phong những lúc rảnh rỗi hay ôm đờn ra chơi. Anh giỏi đờn ca tài tử lắm. Tiếng đờn của anh tròn trịa, thanh thoát như tâm hồn anh vậy”.
Có thể nói, những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy còn nhiều khó khăn thiếu thốn, nhưng báo Tiếng súng kháng địch đã phát huy vai trò tích cực trên lĩnh vực thông tin tuyên truyền, kịp thời phản ánh tinh thần chiến đấu của quân - dân miền Tây Nam Bộ. Đây là vũ khí sắc bén của lực lượng vũ trang Chiến khu 9 trên mặt trận văn hóa, tư tưởng; cổ vũ cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến giành thắng lợi.