08/10/2025 - 10:40

“Lá chắn mềm” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở ĐBSCL 

Bài cuối: Giữ vững “lá chắn mềm” từ lòng dân

Dù đạt được nhiều kết quả quan trọng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) vẫn còn không ít khó khăn: kinh tế phát triển chưa đồng đều, hạ tầng còn hạn chế, chất lượng giáo dục - y tế chưa cao, đội ngũ cán bộ dân tộc còn thiếu và yếu... Giải quyết những vấn đề này không chỉ để phát triển bền vững, mà còn nhằm củng cố, giữ vững “lá chắn mềm” - sức mạnh từ lòng dân, nền tảng bảo vệ tư tưởng của Đảng trong thời kỳ mới.

Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước TP Cần Thơ trao quà cho học sinh có thành tích tốt tại Lễ tổng kết Khóa dạy chữ Khmer trong dịp hè 2025. Ảnh: CTV

Còn nhiều khó khăn, thách thức

Bên cạnh những gam màu sáng, bức tranh phát triển vùng đồng bào DTTS, vẫn còn không ít gam màu thử thách cần được nhận diện và khắc phục. Theo Vụ Tuyên truyền Công tác dân tộc, tôn giáo, Bộ Dân tộc và Tôn giáo, hiện nay vùng đồng bào DTTS vẫn đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế - xã hội tuy có bước chuyển biến tích cực nhưng tốc độ phát triển còn chậm; kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Đời sống, sản xuất của một bộ phận đồng bào còn nhiều khó khăn, nhất là ở các hộ nghèo, cận nghèo tại vùng sâu, vùng xa, biên giới... Có thể nói, sự chênh lệch phát triển giữa vùng đồng bào DTTS và mặt bằng chung cả nước vẫn là một thách thức; nếu chậm được khắc phục dễ ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc và có thể tạo ra khoảng trống để các thế lực xấu lợi dụng.

Trong lĩnh vực giáo dục, cơ sở vật chất trường lớp ở một số nơi chưa đồng bộ; công tác tuyển sinh và quy mô đào tạo tại các trường phổ thông dân tộc nội trú còn hạn chế. Chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ còn thấp; chính sách cử tuyển tồn tại nhiều khó khăn, nhiều sinh viên tốt nghiệp chưa được bố trí việc làm… Một số địa phương còn thiếu giáo viên, nhất là giáo viên dạy tiếng DTTS (chủ yếu là tiếng Khmer), điều này đặt ra yêu cầu tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng nhu cầu bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa dân tộc.

Công tác chăm sóc sức khỏe ở vùng đồng bào DTTS cần tiếp tục được quan tâm đầu tư.

Ở lĩnh vục y tế, cơ sở vật chất và trang thiết bị tại nhiều nơi còn hạn chế. Đáng lưu ý, do thay đổi tiêu chí, nhiều xã, ấp đặc biệt khó khăn đã không còn trong diện được thụ hưởng chính sách hỗ trợ bảo hiểm y tế, dẫn đến việc người dân phải tự tham gia bảo hiểm tự nguyện trong khi thu nhập thấp, gây thêm khó khăn cho việc chăm sóc sức khỏe…

Về xã hội, vẫn còn xảy ra tình trạng xuất cảnh trái phép; một số vụ tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, chưa được giải quyết dứt điểm. Một bộ phận đồng bào còn bị ảnh hưởng bởi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, dẫn đến có đối tượng cực đoan, quá khích đi ngược lại chính sách đại đoàn kết dân tộc. Đây là nguy cơ đe dọa ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, đặt ra yêu cầu phải nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác dân vận và tuyên truyền.

Về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS, tuy số lượng và chất lượng có tăng nhưng nhìn chung chưa đồng đều, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý là người dân tộc còn thấp so với yêu cầu. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ này cũng còn hạn chế, tinh thần cầu tiến của một bộ phận cán bộ chưa cao. Đây cũng là một trong những gam màu thử thách trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” ở vùng DTTS ảnh hưởng đến việc đưa chính sách dân tộc đi vào thực tiễn một cách hiệu quả…

Nhiều vùng đồng bào DTTS bị ảnh hưởng bởi hạn hán, xâm nhập mặn… khiến đời sống còn nhiều khó khăn. Trong ảnhMột tuyến kênh “trơ đáy” ở xã Khánh Bình, tỉnh Cà Mau do hạn hán năm 2024.

Những tồn tại, hạn chế trên phần lớn bắt nguồn từ việc nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào DTTS trong một thời gian dài chưa tương xứng; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành đôi khi thiếu chặt chẽ, đồng bộ. Trong bối cảnh khó khăn ấy, các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, xuyên tạc, gây mất đoàn kết, phá hoại lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước. Đây là nguy cơ cần được quan tâm, bởi khi niềm tin suy giảm thì những thành quả phát triển kinh tế - xã hội cũng khó giữ vững.

Ngoài ra, một bộ phận đồng bào DTTS sinh sống tại khu vực dễ bị tổn thương bởi thiên tai, biến đổi khí hậu như sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn... Tình trạng di cư tự do, thiếu quy hoạch tiếp tục gây áp lực lên hạ tầng và tài nguyên, tiềm ẩn nguy cơ xung đột lợi ích, mất ổn định xã hội. Những vấn đề này đặt ra cho công tác dân tộc hiện nay tính chất phức hợp, gắn liền và đan xen giữa các yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường và an ninh.

Giải quyết hiệu quả những khó khăn, thách thức ở vùng đồng bào DTTS không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, mà còn củng cố lòng tin của nhân dân, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng và bồi đắp khối đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Củng cố “lá chắn mềm” 

Phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc, việc củng cố “lá chắn mềm” trong vùng đồng bào DTTS được xác định là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài và cấp bách. Vì thế, cần tiếp tục tăng cường lãnh đạo, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền cùng các lực lượng liên quan. Công tác dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài, cấp bách, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn hệ thống chính trị, nhằm tạo nền tảng vững chắc cho mọi chính sách đi vào thực tiễn.

Song song với việc nâng cao nhận thức, cần tiếp tục thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị liên quan, như: Nghị quyết 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII. Nghị định số 127/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc, Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 10/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc. Chỉ thị 1971/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác dân tộc thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết số 120/NQ-CP… Kết hợp thường xuyên kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả triển khai để đảm bảo các chủ trương dân tộc được thực hiện đúng mục tiêu, đúng đối tượng.

Một góc nông thôn vùng đồng bào DTTS ở Cà Mau.

Phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS cần được thực hiện một cách đồng bộ và bền vững. Trong đó, ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa; tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, vay vốn ưu đãi; gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp, thích ứng với biến đổi khí hậu, khai thác lợi thế đặc thù vùng DTTS để phát triển nhanh và bền vững. Những giải pháp này không chỉ nâng cao đời sống và khả năng tự chủ của đồng bào, mà còn giúp củng cố niềm tin và sự gắn kết trong cộng đồng.

Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và an ninh trật tự là yếu tố then chốt để duy trì “lá chắn mềm” của Đảng trong vùng đồng bào DTTS. Thực hiện nghiêm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy vai trò của người uy tín, các vị chức sắc tôn giáo; xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh gắn kết với lòng dân vững chắc, thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở và biểu dương, tôn vinh người tiêu biểu sẽ tạo nền tảng vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc và ổn định chính trị -  xã hội.

Song song với các chính sách trên, việc phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt đội ngũ cán bộ, công chức người DTTS, là điều kiện quyết định. Cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và kỹ năng cho đội ngũ cán bộ, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, khai thác tiềm năng đặc thù vùng DTTS, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển toàn diện.

*

Thực hiện tốt công tác dân tộc và chính sách dân tộc không chỉ bảo đảm quyền lợi chính đáng của đồng bào DTTS, mà còn là “lá chắn mềm” bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực tiễn tại ĐBSCL cho thấy sự gắn kết giữa chính sách và công tác dân tộc vừa giúp phát triển kinh tế - xã hội, vừa củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Khi lòng dân vững, niềm tin bền, “lá chắn mềm” ấy sẽ là sức mạnh nội sinh giúp đất nước ổn định và phát triển phồn vinh.

THANH LONG

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.
  2. Hồ Chí Minh (1995). Toàn tập Hồ Chí Minh, tập 7. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.
  3. Kết luận số 65-KL/TW ngày 20/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác dân tộc.
  4. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IX) về công tác dân tộc.
  5. Tài liệu Hội nghị Tổng kết Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoan 2021-2025, tháng 8 năm 2025.
  6. Ủy ban Dân tộc (2023). Báo cáo tổng kết thực hiện chính sách dân tộc và chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực phía Nam, giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1; 2021-2025.
  7. UBND TP Cần Thơ và các tỉnh Cà Mau, An Giang, Trà Vinh. Báo cáo tình hình thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc giai đoạn 2021–2024.

 

Chia sẻ bài viết