|
Nhân viên Lehman Brothers mất việc sau khi ngân hàng này sụp đổ. Ảnh: Reuters |
Hôm qua 15-9 là tròn một năm ngày Lehman Brothers - một trong những ngân hàng đầu tư lâu đời và uy tín nhất thế giới - tuyên bố phá sản, gây hoảng loạn trong ngành tài chính toàn cầu. Thị trường chứng khoán thế giới lập tức giảm điểm, các ngân hàng lớn ở Mỹ và Anh sống sót nhờ vào các gói cứu trợ của chính phủ, và thế giới bắt đầu rơi vào cuộc suy thoái, được cho là nghiêm trọng nhất trong 60 năm qua.
Lehman Brothers phá sản - khởi đầu của cuộc suy thoái
“Cơn ác mộng khủng hoảng” bắt đầu từ hôm 12-9-2008, khi những người đứng đầu các ngân hàng lớn nhất nước Mỹ được triệu tập tham dự một cuộc họp khẩn cấp tại Cục dự trữ liên bang (FED) nằm ở trung tâm tài chính Manhattan, thành phố New York (Mỹ). Bộ trưởng Tài chính Hank Paulson cảnh báo với các “đại gia” ở phố Wall rằng Lehman Brothers sắp phá sản, và chính phủ sẽ không dang tay cứu giúp. 48 giờ sau đó, mặc dù các quan chức của FED, Bộ Tài chính, luật sư và ông chủ của các ngân hàng đã cố gắng hết sức để cứu Lehman Brothers nhưng do không có sự hỗ trợ tài chính của chính phủ nên ngân hàng này đành bó tay chịu trận và tuyên bố phá sản vào ngày 15-9. Chỉ một ngày sau đó, 700 tỉ USD lập tức “bốc hơi” khỏi thị trường chứng khoán toàn cầu. Chỉ số Dow Jones giảm 500 điểm, mức sụt giảm lớn nhất trong một ngày kể từ hôm xảy ra vụ khủng bố 11-9-2001.
Sự sụp đổ của Lehman Brothers chính là “ngòi nổ” của cuộc khủng hoảng.
Chính phủ các nước giàu phải bù lỗ 10.000 USD/người
Dựa trên số liệu do Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cung cấp cho các bộ trưởng tài chính thuộc Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20), hãng tin Anh BBC cho biết những nước này đã chi tổng cộng 10 nghìn tỉ USD để kìm hãm đà suy giảm. Trong đó, Anh là nước chi nhiều nhất, đến 94% GDP, kế đến là Mỹ, 25% GDP. Tính ra, chính phủ Anh đã chi khoảng 50.000 USD/người còn Mỹ thì chi 10.000 USD/người.
Để thúc đẩy tăng trưởng, chính phủ các nước đã vay nhiều tỉ USD để “bơm” vào các gói kích thích kinh tế. Dự báo trong 5 năm tới, nợ của chính phủ Anh sẽ tăng từ khoảng 944 tỉ USD lên hơn 2,3 nghìn tỉ USD, trong khi nợ quốc gia của Mỹ tăng gấp đôi lên 10 nghìn tỉ USD. Thậm chí người ta còn tính được rằng khoản lãi từ nợ nần của chính phủ Anh vào năm 2014 có thể còn lớn hơn ngân sách chi cho ngành giáo dục.
Không chỉ tác động đến kinh tế vĩ mô, cơn bão khủng hoảng còn khiến giá trị tài sản do các cá nhân nắm giữ sụt giảm nghiêm trọng. BBC và nhóm nghiên cứu Halifax ước tính trong 1 năm qua, trị giá tài sản quốc gia của Anh do cá nhân nắm giữ đã giảm khoảng 1,35 nghìn tỉ USD, trong đó, giá bất động sản của họ giảm 15%, còn giá cổ phiếu giảm 9%.
Kinh tế có dấu hiệu phục hồi
Sau nhiều tháng vật lộn với những khó khăn do khủng hoảng gây ra, kinh tế thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, nhất là trong quý 2-2009. Tuy nhiên, sự phục hồi đó không phải diễn ra ở Anh hay Mỹ - hai nước nằm trong “tâm bão” của “cơn bão tài chính toàn cầu” - mà nó xuất hiện ở Pháp, Đức và Nhật Bản. Tương tự, các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc, cũng khôi phục được đà tăng trưởng, thậm chí còn nhanh hơn mong đợi. Theo dự báo mới nhất của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), tăng trưởng kinh tế của G7 (Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển gồm Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp, Ý và Canada) sẽ là âm 3,7% trong năm 2009, so với mức dự báo âm 4,1% hồi tháng 6-2009.
Khủng hoảng sẽ tái diễn?
Cựu Chủ tịch FED Alan Greenspan cho rằng mặc dù thế giới cần thêm nhiều thời gian để phục hồi và sẽ gặp nhiều khó khăn nhưng cuối cùng thì kinh tế toàn cầu cũng sẽ qua khỏi suy thoái. Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo “khủng hoảng sẽ tái diễn, song sẽ khác với lần này”. Và để đề phòng khủng hoảng tái diễn, ông Greenspan đề nghị khu vực tài chính và chính phủ các nước phải ngăn chặn tình trạng gian lận và bắt buộc tăng vốn dự trữ để trang trải các hoạt động bình thường của ngân hàng và đáp ứng nhu cầu rút tiền khi cần.
THANH TRÚC (Theo BBC)