16/04/2024 - 08:44

Giữ nghề truyền thống ở Kiên Giang 

Tỉnh Kiên Giang có nhiều nghề truyền thống giúp hàng ngàn gia đình có cuộc sống sung túc. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển chung, những nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh đang gặp khó, cần có những giải pháp giữ gìn và phát triển.

Nghề xưa gặp khó

Nghề nắn nồi đất ở khu phố Ðầu Doi, thị trấn Hòn Ðất, huyện Hòn Ðất, đã tạo ra những sản phẩm có vị trí quan trọng trong đời sống, bởi nồi, niêu, xoong, chảo, cà ràng… đã đi vào bếp ăn của mỗi gia đình như những gì quen thuộc nhất. Theo các bậc cao niên, khoảng những năm 20 của thế kỷ 19, một người Khmer đến sinh sống ở Hòn Ðất sáng tạo nghề nắn nồi bằng đất sét để làm dụng cụ nấu nướng. Về sau, người dân trong vùng học theo và phát triển thành nghề như hiện nay.

Ông Trần Văn Lập gắn bó nghề làm nồi đất hàng chục năm qua.

Những năm 1980, ông Trần Văn Lập (65 tuổi, quốc tịch Việt Nam nhưng sinh ra tại Campuchia) về khu phố Ðầu Doi sinh sống, cưới vợ, rồi gắn bó với nghề làm nồi đất. Ðể tạo ra các sản phẩm bằng đất, theo ông Lập phải có nguyên liệu đất sét và qua nhiều công đoạn như tạo hình, làm bóng, tạo hoa văn, phơi khô, rồi đưa vào nung với các kỹ thuật xếp sản phẩm, chèn rơm, đốt củi… “Mỗi cái lò đất gia đình tôi làm ra giá khoảng 60.000 đồng, mỗi chuyến ghe tôi chở được 500 cái lò, trị giá khoảng 30 triệu đồng, lời khoảng 40%” - ông Lập nói.

Tại khu phố Ðầu Doi, hiện có 20 gia đình, với khoảng 200 người làm nghề nắn nồi đất. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Hiếu, Phó Chủ tịch HÐND thị trấn Hòn Ðất, lo lắng vì lò đất hiện không còn là vật dụng thiết yếu của gia đình bởi đã có bếp gas, bếp từ. Trước đây, tỉnh Kiên Giang khuyến khích người dân mở rộng đầu tư máy móc, nhưng do sản phẩm làm ra giá trị nhỏ, lợi nhuận không cao nên bà con không mở rộng. Bên cạnh đó, nghề làm nồi đất có nguy cơ mai một do thiếu nguồn đất sét, trong khi địa phương không có quỹ đất để khai thác dành cho nghề này.

Làm nước nắm ở TP Phú Quốc là nghề nổi tiếng tại tỉnh Kiên Giang được truyền qua nhiều thế hệ. Theo lý lịch di sản văn hóa phi vật thể nghề làm nước mắm Phú Quốc, trước năm 1900, dọc theo bờ biển của vùng đảo Hải Tặc, Bình Trị, Củ Tron, Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang, có rất nhiều cá cơm, ăn tươi không hết nên ngư dân đem muối để sử dụng lâu dài. Nước muối cá này được sử dụng làm gia vị hằng ngày. Qua thời gian, người dân đúc kết kinh nghiệm để làm nước muối cá ngày càng ngon hơn, từ đó hình thành nghề chế biến nước mắm.

Năm 1975, Phú Quốc có 62 nhà thùng, sản xuất mỗi năm khoảng 7 triệu lít nước mắm. Bà Hồ Kim Liên, Chủ tịch Hiệp hội Sản xuất nước mắm Phú Quốc, chủ hãng nước mắm Khải Hoàn, cho biết chỉ có các nhà thùng ở Phú Quốc mới chế biến được nước mắm có hàm lượng nitơ toàn phần (độ đạm tự nhiên) cao từ 40-45gN/lít. Hiện nay, Hiệp hội có 54 hội viên, sở hữu hơn 7.000 thùng ủ chượp, trong đó 8 hội viên có tàu khai thác cá cơm, 10 doanh nghiệp có hàng xuất khẩu, sản lượng cá cơm thu mua hằng năm khoảng 30.000-40.000 tấn, sản xuất 20-30 triệu lít nước mắm (quy ra 25 độ đạm), doanh thu mỗi năm 250-300 tỉ đồng.

Mặc dù vậy, theo bà Liên, tình hình sản xuất kinh doanh của nước mắm Phú Quốc hiện gặp nhiều khó khăn do nguồn cá cơm không ổn định và dần cạn kiệt, trong khi đó giá dầu tăng cao làm tăng chi phí của mỗi chuyến đánh bắt. Bên cạnh đó, hiện vẫn còn tình trạng gian lận nhãn mác, làm giả, nhái nước mắm kém chất lượng, ảnh hưởng đến thương hiệu nước mắm cá cơm truyền thống Phú Quốc…

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang cho biết toàn tỉnh hiện có 2.029 cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia các hoạt động nghề truyền thống, trong đó có 117 doanh nghiệp, 2 hợp tác xã, 1.910 hộ. Nghề truyền thống có bước phát triển đáng kể, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động.

Mặc dù vậy, theo ông Trần Công Danh, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang, phần lớn các nghề truyền thống của tỉnh quy mô nhỏ lẻ; hình thức sản xuất chủ yếu hộ gia đình; một số sản phẩm truyền thống còn lạc hậu, có nguy cơ mai một như đan đát, dệt chiếu, lò rèn… Ngoài ra, trình độ quản lý, khả năng phân tích thị trường để xác định cơ hội và rủi ro kinh doanh của người dân còn thấp. Lao động ở một số nghề truyền thống chủ yếu phổ thông, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất còn yếu, chưa xây dựng được thương hiệu đặc trưng cho sản phẩm.

Vực dậy nghề truyền thống

Nghề truyền thống ở Kiên Giang đang gặp nhiều khó khăn, cần tìm giải pháp vượt khó. Trong đó, gắn phát triển với du lịch, xốc lại việc quản lý, xây dựng thương hiệu… là những giải pháp đang được triển khai thực hiện.

Nghề làm nước mắm truyền thống ở Phú Quốc.

Năm 2015, khi đang làm việc ở TP Hồ Chí Minh, anh Nguyễn Huỳnh Anh Khoa quyết định về phát triển nghề làm nước mắm Phú Quốc truyền thống của gia đình. Từng tham dự nhiều hội chợ, hội thảo, trưng bày sản phẩm hàng Việt Nam chất lượng cao, anh Khoa đang có ý tưởng tạo kênh bán hàng trên Internet, tìm kiếm thị trường xuất khẩu sang Mỹ, châu Âu…

Cùng chí hướng với anh Khoa, để phát triển thương hiệu và bán được nhiều sản phẩm, các cơ sở sản xuất nước mắm ở Phú Quốc đã đầu tư hệ thống dây chuyền đóng chai tự động. Từ 4 công nhân đóng 500 chai/ngày, nay chỉ 2 người nhưng đóng được hơn 2.000 chai/ngày. Nước mắm thành phẩm của các nhà thùng từ bồn chứa chảy qua hệ thống bơm vào chai thủy tinh theo thể tích được lập trình sẵn, rồi đến đóng nút, dán nhãn theo quy chuẩn, đẹp hơn làm thủ công.

Chủ tịch UBND TP Phú Quốc Huỳnh Quang Hưng cho biết thời gian tới, bên cạnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản, nguyên liệu cá cơm, thành phố sẽ quy hoạch làng nghề sản xuất nước mắm tập trung; tìm giải pháp về mẫu mã; đồng thời tăng cường quảng bá để người tiêu dùng biết đến nhiều hơn về nước mắm Phú Quốc như là một sản vật của quốc gia, qua đó gắn với thu hút khách tham quan.

Theo ông Lương Thanh Hải, Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Kiên Giang, loại hình du lịch nghề truyền thống ở Việt Nam ngày càng hấp dẫn du khách nước ngoài, bởi những giá trị văn hóa lâu đời và các sản phẩm đặc trưng của mỗi vùng, miền. Du lịch và nghề truyền thống có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại. Nghề truyền thống góp phần làm đa dạng sản phẩm du lịch và tăng nguồn thu cho du lịch. Ngược lại, du lịch góp phần quảng bá truyền thống văn hóa, lịch sử, nét tài hoa của người làm nghề, giải quyết đầu ra cho sản phẩm nghề truyền thống.

Ông Lương Thanh Hải cho biết tỉnh Kiên Giang đang triển khai các nhóm giải pháp phát triển du lịch gắn với bảo tồn nghề truyền thống có tiềm năng du lịch cao. Ðồng thời tạo điều kiện để các hộ, cơ sở hoạt động nghề được vay vốn trung, dài hạn với lãi suất ưu đãi nhằm đổi mới thiết bị, công nghệ, sản xuất mặt hàng mới. Khuyến khích thợ giỏi, có tay nghề trực tiếp mở lớp truyền nghề; tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy phát triển các sản phẩm của nghề truyền thống…

Toàn tỉnh Kiên Giang hiện có 45 nghề truyền thống, với 3 nhóm nghề: chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản; sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống cư dân.

Theo Đề án “Phát triển các ngành nghề truyền thống gắn với du lịch tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030”, đến năm 2025, tỉnh Kiên Giang có 8 làng nghề truyền thống đưa vào khai thác du lịch, gồm: sản xuất nước mắm, nuôi cấy ngọc trai, sản xuất rượu sim, đan cỏ bàng, trồng tiêu, nghề làm khô, đan lục bình, nuôi cá bè và làng chài.

Bài, ảnh: LÊ VINH

 

Chia sẻ bài viết