26/11/2025 - 13:37

Đoàn đại biểu Quốc hội TP Cần Thơ góp ý về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo 

Sáng 25-11-2025, tại nhà Quốc hội, Tổ 11 gồm Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) TP Cần Thơ và Đoàn ĐBQH tỉnh Điện Biên, đã tiến hành thảo luận tại Tổ về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, giai đoạn 2026-2035.

Các vị đại biểu Quốc hội thuộc Đoàn ĐBQH TP Cần Thơ gồm: bà Lê Thị Thanh Lam, Phó Trưởng đoàn chuyên trách; ông Nguyễn Văn Quân, Giám đốc Sở Tư pháp và ông Nguyễn Thanh Phương, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Cần Thơ, đại biểu Quốc hội TP Cần Thơ, tham gia một số ý kiến như sau:

Về vai trò “chuẩn hóa hệ thống”

Bà Lê Thị Thanh Lam, Phó Trưởng đoàn chuyên trách, tham gia ý kiến tại Tổ.

Bà Lê Thị Thanh Lam thống nhất cao với Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, giai đoạn 2026-2035 và Chương trình chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035. Tuy nhiên, cần tách riêng các chương trình về lĩnh vực giáo dục và nông thôn mới để tránh trùng lắp theo ý kiến thẩm tra của cơ quan thẩm tra. Ban soạn thảo cần xây dựng một tên chương trình cụ thể, giao cho một đơn vị chịu trách nhiệm trong quá trình tổ chức và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia được minh bạch, hiệu quả hơn.

Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục, giai đoạn 2026-2035 cần xác định rõ vai trò “chuẩn hóa hệ thống”. Các dự án thành phần chỉ nên tập trung vào những hạng mục cốt lõi có tác động trực tiếp đến chất lượng dạy - học, bao gồm phòng học đạt chuẩn, thiết bị dạy học tối thiểu theo Chương trình giáo dục phổ thông mới và đào tạo năng lực số cho giáo viên - học sinh, đây là những nội dung đòi hỏi tiêu chuẩn thống nhất trên toàn quốc.

Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia vùng đồng bào dân tộc thiểu số - miền núi và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, đề nghị chỉ thực hiện các hạng mục thuộc nhóm thiết chế cộng đồng như nhà văn hóa, khu sinh hoạt cộng đồng, ký túc xá, bếp ăn, hay các công trình phụ trợ của cơ sở giáo dục. Đây là những nội dung mang tính phúc lợi chung, đặc thù vùng miền và phù hợp với tính chất của các chương trình này. Việc giới hạn nhiệm vụ theo đúng chức năng sẽ tránh lặp lại các khoản đầu tư lớn vào phòng học và thiết bị dạy học vốn đã thuộc trách nhiệm của Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục.

Về cách phân tuyến không chỉ giúp 2 chương trình đầu tư vào cùng một mục tiêu, mà còn giúp ngân sách Trung ương tập trung nguồn lực cho những yếu tố cốt lõi của chất lượng giáo dục, thay vì dàn trải. Đồng thời tạo ra sự phân định rõ ràng về trách nhiệm giải trình: Chương trình nào lo điều kiện học tập, chương trình nào lo thiết chế cộng đồng, chương trình nào lo an sinh và hỗ trợ vùng khó khăn. Nhờ đó, hoạt động giám sát của Quốc hội cũng trở nên thuận lợi, hiệu quả và minh bạch hơn.

Về Chương trình chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu đưa các hạng mục và kèm kinh phí từng năm cụ thể để thuận tiện trong quá trình triển khai và thực hiện các hạng mục của chương trình. Về tổng huy động nguồn vốn để thực hiện chương trình giáo dục trong giai đoạn 2026-2035 đối với vốn ngân sách Trung ương chiếm (60,2%), ngân sách địa phương chiếm (19,9%), vốn đối ứng của cơ sở của giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chiếm (15,4%), vốn huy động khác (4,5%). Đại biểu đề xuất đối với các chương trình mục tiêu quốc gia, Chính phủ nên gom lại những nguồn thu chung trong cả nước và trực tiếp giao vốn như nhau cho các địa phương thực hiện chương trình một số tỉnh, thành phố có điều kiện thu ngân sách tốt hơn sẽ hỗ trợ cho những tỉnh hạn chế nguồn thu. Nếu giao như trên thì địa phương khó khăn không có nguồn thu ngân sách sẽ không cân đối được vốn để thực hiện từ đó dẫn đến việc chậm trễ trong các dự án của chương trình và không đồng loạt trong cả nước.

Về các tiêu chí cụ thể

Ông Nguyễn Văn Quân, Giám đốc Sở Tư pháp, ĐBQH TP Cần Thơ, tham gia ý kiến.

Ông Nguyễn Văn Quân tham gia ý kiến: Liên quan đến tổng nguồn vốn đầu tư cho cả 2 giai đoạn 2026-2035 trên 580.000 tỉ đồng (lấy số tròn), thì bình quân mỗi năm chương trình phải hấp thụ trên 58.000 tỉ đồng, đại biểu quan ngại về khả năng hấp thụ vốn….  Thực tế chứng minh một số chương trình mục tiêu quốc gia khác như Chương trình mục tiêu quốc gia xây dượng nông thông mới so với thời gian và tiến độ đến nay chỉ giải ngân khoảng 66%, không đạt yêu cầu đề ra. Do đó, cần cân nhắc có đầu tư trọng tâm và có giải pháp cụ thể, để chương trình khi thực hiện đạt mục tiêu đề ra.

Trang 14, phần c tại báo cáo đề xuất chủ trương Về chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, thông qua 4 trụ cột chính: (1) Đầu tư cơ sở vật chất….. (2) Mở rộng không gian phát triển … (hiện đại hóa giáo dục). (3) Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phục vụ đào tạo, phát triển nhân lực chất lượng cao,… (4) Phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Trong 4 nội dung trụ cột, vấn đề đại biểu đặc biệt quan tâm là Chương trình phải tập trung nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, trong đó có đầu tư cơ sở vật chất; đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Bên cạnh đó, cần phải dự báo khó khăn, vướng mắc về triển khai chương trình này, nhằm đánh giá kết quả để có giải pháp phù hợp, lường hết các tình huống có thể xảy ra và có sự cam kết mạnh mẽ từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo gắn liền trách nhiệm cụ thể.

Tóm lại, phạm vi chương trình quá rộng, còn nặng về số lượng, tăng quy mô… Nhưng chưa quan tâm nhiều đến chất lượng nói chung. Trên cơ sở đó, kiến nghị đơn vị soạn thảo nên tập trung 2 việc trọng tâm để có xác định nguồn lực đầu tư hợp lý. Đó là: (1) Nâng cao chất lượng đào tạo (đội ngũ giáo viên, chương tình đào tạo sát thực tiễn); (2) Hiện đại hóa cơ sở vật chất (thiên về thực hành).

Về các mục tiêu cụ thể

Ông Nguyễn Thanh Phương, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Cần Thơ, ĐBQH TP Cần Thơ, tham gia phát biểu tại Tổ.

Ông Nguyễn Thanh Phương tham gia một số ý kiến: Mục tiêu cụ thể thứ nhất hướng đến 30% cơ sơ giáo dục mầm non, phổ thông (vào năm 2030) và 100% (vào năm 2035) có đủ cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để triển khai thực hiện dạy học để dạy tiếng Anh qua một số môn học và dạy một số môn học bằng tiếng Anh (nhất là các môn STEM/STEAM). Đây là mục tiêu tốt nhưng chưa trọn vẹn, cần được xem xét điều chỉnh và cần phải bổ sung thêm mục tiêu/nội dung về năng lực tiếng Anh của người học. Thực tiễn làm công tác giáo dục và đào tạo, đại biểu nhấn mạnh để dạy và học được tiếng Anh đòi hỏi cả người học và người dạy phải có năng lực tiếng Anh tốt, nếu không sẽ không đạt được hiệu quả. Hơn nữa, Nghị quyết 71 của Trung ương có đề cập tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 “trong trường học”, không xác định là cấp học nào. Đại biểu kiến nghị nên tính đến mục tiêu nâng cao năng lực tiếng Anh của người học, nhất là ở cấp học đại học, nên chăng bổ sung chỉ tiêu là sinh viên tốt nghiệp đại học hay tốt nghiệp các trường nghề phải có tỷ lệ nhất định về khả năng sử dụng tốt tiếng Anh (ví dụ: 30% người tốt nghiệp các trường nghề và 50% người tốt nghiệp đại học sử dung được tiếng Anh). Kinh nghiệm một số quốc gia (Thái Lan, Malaysia, Nhật Bản…) năng lực tiếng Anh của sinh viên rất tốt, khi học đến những năm cuối đại học là có thể tham gia các chương trình giao lưu/trao đổi sinh viên và sử dụng tốt tiếng Anh. Trong bối cảnh tiếng Anh ngày càng phổ quát và quan trọng trong tiếp cận kỹ thuật công nghệ thì cần quan tâm, phấn đấu đến hết thời gian của Chương trình thì tiếng Anh của người Việt Nam được nâng cao. Kết quả này cũng nói lên tiếng Anh là ngôn ngữ thứ 2 trong trường học.

Ngoài ra, cần lưu ý thêm chỉ tiêu 100% cơ sơ giáo dục mầm non và phổ thông vào năm 2035 có đầy đủ cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để triển khai thực hiện đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường là khó khả thi với các nơi điều kiện kinh tế khó khăn (vùng sâu, miền núi…) nơi giáo dục đang còn nhiều khó khăn.

Mục tiêu cụ thể số 3, có mục tiêu có ghi đến năm 2030 có 50% cơ sở giáo dục đạt “chuẩn” nhưng không thấy mục tiêu đến năm 2035 mà lại có mục tiêu hệ thống giáo dục hiện đại ngang tầm khu vực về đào tạo chất lượng cao, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo là cũng cần xem xét tính khả thi. Đại biểu bày tỏ lo lắng khi chỉ với một chương trình trong 10 năm mà đưa giáo dục đại học lên một tầm cao như vậy. Nên chăng, xác định đến năm 2030 tất cả các cơ sở giáo dục phải đạt chuẩn để đưa giáo dục đại học vào hệ thống và đảm bảo chất lượng (nếu các cơ sở không thì có thể giải thể hoặc sáp nhập…).

Mục tiêu khác là có 8 cơ sở giáo dục đại học công lập xếp vào nhóm 200 trường hàng đầu ở châu Á và 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm hàng đầu thế giới ở một số ngành, lĩnh vực trong điểm vào năm 2030 và sẽ tăng lên 12 cơ sở thuộc nhóm 200 và 2 cơ sở thuộc nhóm 100 vào năm 2035. Đại biểu cho rằng việc xác định mục tiêu xếp hạng của cơ sở giáo dục của Việt Nam trong bảng xếp hạng thế giới là cần, để thấy danh giá của nền giáo dục Việt Nam, nhưng để xếp hạng cao đòi hỏi nhiều yếu tố và là quá trình phát triển của cơ sở giáo dục… có thể vượt qua ngoài thời gian của một chương trình mục tiêu. Trong khuôn khổ của chương trình mục tiêu và đối với giáo dục đại học cần phải quan tâm thêm chỉ tiêu cải thiện về chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho quốc gia, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy nên quan tâm đến chỉ tiêu chất lượng đào tạo và chất lượng của cơ sở giáo dục.

Mục tiêu cụ thể số 4, cần quan tâm đặt chỉ tiêu cụ thể đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý,… để đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng. Bởi vì đội ngũ này quyết định đến chất lượng của nền giáo dục. Có thể xây dựng các chương trình hay dự án đào tạo nhân lực trong và ngoài nước.

ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TP CẦN THƠ

Chia sẻ bài viết