27/12/2020 - 12:47

Bà câm 

Truyện ngắn: VŨ NGỌC GIAO

Bà câm

Bà câm sống một mình trong chòi dưới chân dốc Mù U. Nơi đó vắng ngắt, cánh đồng bỏ hoang, đến tiếng gà gáy nghe cũng xao xác, buồn thiu. Vào mùa gặt họa hoằn lắm mới có con chim cu cườm ghé qua gừ gừ vài tiếng gọi bạn rồi lại đập cánh bay tít sang cánh đồng bên.

Cái chòi của bà câm nhỏ xíu nhưng sân trước thì rộng thênh. Trước sân bà kê một cái kệ được ghép lại bằng mấy tấm ván. Trên đó bày la liệt các thứ linh tinh: bánh kẹo, dầu gió, cũng có khi vài bó rau bà trồng trong vườn hay những trái mướp bị ong đốt còng queo. Ai cần gì đến mua bà cũng có, từ cây kim, cuộn chỉ đến lít dầu hỏa, giấm, đường... Người làng hầu hết sống ở bên kia con dốc, cần kíp lắm mới đến chỗ bà câm.

Con dốc Mù U chỉ rộn tiếng chân người khi chợ họp vào sáng sớm, cái chợ tạm bên kia con dốc. Muốn đi chợ, người làng bên thường đi đường tắt qua con dốc này để tránh đoạn đường lớn khá xa ngoài kia. Có khi họ dừng lại quán bà uống ly nước chè hoặc ngồi trốn nắng chốc lát. Mỗi khi có khách ghé qua, bà câm vui lắm, lật đật khiêng ghế cho khách. Mùa hè nóng nực, bà luôn cầm cái quạt mo cau phe phẩy cho khách, vừa canh chừng ấm nước chè trên bếp. Tan chợ, dốc Mù U lại vắng lặng, quán bà cũng chỉ còn vài bông nắng lưa thưa nhảy nhót.

Bà câm sống ở đó bao nhiêu năm, người trong làng cũng không còn nhớ nữa. Chỉ nhớ rằng mùa lụt năm đó, đêm đến nước sông đột ngột dâng lên ngập quá nửa cổng làng. Sáng hôm sau nước rút, người làng nhìn thấy một người đàn bà nằm sấp bên vệ đường, trên người còn đeo một chiếc túi vải. Người làng đưa về sân đình, bà còn thoi thóp. Được cứu sống, bà tỉnh lại nhưng chỉ ú ớ. Người đàn bà xinh đẹp từ đâu không rõ, dạt về làng, ra hiệu xin được ở lại nơi đây vì gia đình chẳng còn ai, nhà cửa cũng bị nước cuốn trôi. Làng thương tình dựng cho bà cái chòi dưới con dốc Mù U.

Nhà con Lem cũng ở dưới chân dốc Mù U, cách nhà bà câm một mảnh vườn rộng. Mỗi khi ba mẹ ra đồng, con Lem lại vén hàng rào, mon men sang nhà bà câm. Lần nào nó cũng lấp ló ngoài cửa, đợi bà ra nắm tay dắt vào. Thường thì nó chẳng phải đợi lâu, thoáng thấy bóng con Lem, dù bận cách gì bà cũng ra dắt nó vào, cho nó ngồi trên cái chõng tre gần bếp lửa. Con Lem cũng chỉ chờ có vậy, nó ngoan ngoãn ngồi xếp bằng trên cái chõng xem bà loay hoay với mớ chai lọ đựng đủ thứ mà bà bán. Mẹ nó kể, ngày còn trẻ bà đẹp lắm, sau mùa lũ trôi dạt về làng, đàn ông trong làng nhiều người hỏi bà làm vợ, nhưng bà chỉ lắc đầu, ở vậy. Gương mặt bà đến giờ vẫn đẹp, kín đáo, mặn mà. Dáng bà cao dong dỏng, đi đứng khoan thai, nhẹ nhàng, trông bà khác hẳn những cụ bà lam lũ trong làng.

Mùa hè bà câm mặc chiếc áo màu cánh gián và quần dài lụa đen. Ngồi bên hiên chải tóc, trông bà như vừa bước ra từ truyện cổ tích. Ngoài các thứ linh tinh bày bán trên kệ, gia tài bà chỉ có một cái tủ gỗ cũ kỹ, một chiếc chõng tre và một cái kiềng ba chân để nấu ăn. Bên bếp luôn có một niêu cơm nhỏ xíu và một ơ cá kho khô, bà kho đi kho lại đến quắt queo. Hết ngày này sang ngày khác con Lem thấy thức ăn của bà chỉ có vậy.

Lần nào con Lem qua, bà cũng cầm bàn tay nó xoa xoa, nắn nắn. Bà của con Lem mất từ khi nó còn trong bụng mẹ, nên nó thương bà câm lắm. Nó ngồi yên, đôi mắt đen láy nhìn mấy cái lọ đựng kẹo ú, kẹo dừa. Lần nào bà thấy ánh mắt nó cũng lật đật đến cái kệ run run mở nắp lọ kẹo dừa lấy cho nó mấy cái, tiện tay bà còn bẻ thêm trái chuối trên buồng đang treo lủng lẳng trước quán.

Chiều. Dốc Mù U vắng ngắt. Bà câm ngồi khâu lại cái áo. Xa xa tiếng gà xao xác gáy trưa, thảng có tiếng xe trâu lục cục chạy qua. Chiều nay không thấy con Lem sang chơi, bà lẳng lặng soạn kim chỉ ra khâu vá cho đỡ buồn tay. Giàn mướp trước sân hết mùa, trơ ra những chiếc lá khô rụng xào xạc trước hiên. Bà dừng khâu, đứng lên đấm thùm thụp vào cái lưng đau rồi mang chổi dừa ra hiên quét lá, để nhỡ con Lem chạy qua giẫm lên vụn ra như cám. Quét xong bà chống cây chổi nhìn sang nhà con Lem, bên kia hàng rào im ắng, có lẽ con Lem xuống xóm dưới chơi với tụi trẻ trong làng. Gió hiu hiu đưa sang một mùi khen khét. “Có lẽ cha nó dọn vườn, đốt lá”, nghĩ vậy bà cúi xuống tém nốt đám lá khô vào một góc đợi chạng vạng đốt cho đỡ muỗi. Mùi khen khét bên nhà con Lem bay sang càng lúc càng đậm đặc, bà dừng tay vén hàng rào chui qua.

Trong vườn, con chó Lu đang cong đuôi chạy quanh sân, nhìn thấy bà nó vẫy đuôi ư ử. Một làn khói cuộn lên từ bên trong nhà con Lem. Bà chưa hiểu chuyện gì, con Lu đã chạy đến cào vào chân bà kêu ăng ẳng. Bà sực tỉnh và lao vào nhà, bên trong mù mịt khói, lửa lúc này đã bén lên mái, lan ra cả vườn sau, ngùn ngụt cháy. Bà quýnh quáng ra lu nước lấy chậu tạt lia lịa vào đám cháy, nhưng không kịp nữa rồi, ngọn lửa bùng lên dữ dội. Trong lúc hoảng loạn, bà chợt nghe tiếng thét “Cứu con!” của con Lem. Vớ được cái chăn ở góc giường, bà lao về phía con Lem. Trong đám khói mù mịt, bà nhìn thấy nó ngồi co rúm, gương mặt thất thần. Chỉ kịp trùm cho nó tấm chăn, bà ôm nó ra ngoài. Lúc này đám cháy đã bủa vây bốn bề, bà kiệt sức gục xuống nhưng vẫn quấn con Lem trong tấm chăn, nằm đè lên che cho nó. Ngọn lửa lan đến chỗ hai bà cháu, nóng rẫy. Bà chỉ kịp ú ớ “cứu… cứu…” rồi ngất lịm...

Người làng kéo đến, một lúc đám cháy được dập tắt. Căn nhà của con Lem bị thiêu rụi, chỉ còn là một đống đổ nát. Người ta tìm thấy xác bà câm nằm sấp bên cánh cửa, trong lòng bà, con Lem đen nhẻm vì khói, đầu tóc cháy xém. Nó hoảng loạn. Không khóc. Cũng không thốt được lời nào.

***

Con Lem ngồi trên cái nền gạch đã cứng lại như đá, trước khi bị phá đi, nơi này là cái chòi của bà câm. Nó thẫn thờ nhìn những cánh cò chấp chới ở cánh đồng bên, gần đó mấy con bò nằm tránh nắng dưới tán cây, nhai cỏ. Ngoài vườn chỉ còn lại vài bông nắng lưa thưa dưới giàn mướp cuối mùa. Gió chiều hiu hiu khiến mấy sợi tóc đang bết lại trên trán nó bay phơ phất. Có lẽ gió cũng buồn, gió cũng mồ côi. Trên cái sân gạch này, chỉ mới đây thôi là cái quán nhỏ, trưa hè bà câm thường ngồi chải tóc.

Xa xa có tiếng gà xao xác gáy. Ngọn lửa hôm nào đã thiêu rụi đám cỏ trong vườn, vạt đất trũng xuống, những bông hoa cỏ li ti, yếu ớt còn sống sót đang rung nhè nhẹ. Con Lem lại nhớ bà câm. Cho đến lúc bà chết đi, người làng cũng không ai biết tên bà, chỉ tìm thấy một tấm hình đen trắng đã nhòe, tấm hình duy nhất trong cái túi bà đeo bên người ngày bà trôi dạt đến làng. Trong hình là một đôi vợ chồng trẻ, người đàn bà gương mặt rạng ngời, trên tay bế đứa bé con nép bên chồng, là bà câm ngày xưa. Người làng chôn bà câm bên con dốc Mù U, nơi bà đã đến và sống mấy mươi năm. Con dốc đến giờ vẫn buồn thiu.

Tránh nhớ về cảnh tang thương ngày nào, nhà con Lem dọn về làng. Hôm qua nó nghe ba mẹ bàn đợi đủ năm sẽ đưa bà câm về nằm trong vườn nhà cho ấm. Mỗi khi đi học về, ngang qua dốc Mù U con Lem luôn dừng lại bên mộ bà câm, nó lặng lẽ nhổ cỏ, thầm thì kể chuyện nhà, chuyện lớp cho bà nghe. Nhìn những trái Mù U rụng vơ vất quanh mộ bà, nước mắt nó trào ra vì nhớ, nhớ niêu cơm nhỏ xíu, nhớ mấy con cá kho khô quắt queo, nhớ cục kẹo, nhớ cả bàn tay gân guốc của bà ôm trọn bàn tay nó...

Người trong làng đến giờ vẫn nhắc đến bà câm và con Lem là người duy nhất trong làng được nghe tiếng bà vào giờ phút cuối, người đàn bà một đời câm lặng. Mỗi khi qua con dốc Mù U, nghe tiếng gió xào xạc, con Lem lại tưởng như bước chân bà câm đang đến bên nó, chải mớ tóc rối cho nó. Mắt nó cay cay, thấy mình như chưa từng có ở trên đời...

Chia sẻ bài viết