Truyện ngắn * TAM ANH
"
Cuộc đời trôi theo con nước ròng, nước lớn. Kiếp thương hồ dọc ngang phiêu dạt, đón Tết xa quê mà xao xuyến trong
lòng
”.
Tiếng Thắm hát ru con trong chiếc võng lắc lư trong mui chiếc ghe buôn thật êm tai. Trên bờ, người và xe nhộn nhịp ngược xuôi tấp nập. Những ánh đèn pha sáng rực cứ nối tiếp nhau quét sáng những con đường đầy hoa mai đang nở rộ trong đêm trừ tịch. Tết trên bờ thật vui.
Dưới sông tối mịt. Dòng sông xuôi về bảy ngã rộng mênh mông tràn đầy con nước lớn. Bìm bịp đêm nay bỗng dưng im phăng phắc thật lạ lùng. Cây “bẹo” ở mũi ghe đã được hạ xuống nằm chơ vơ bên cạnh mâm đồ cúng cuối năm. Con vịt luộc vàng hực nóng hôi hổi, một chai rượu đế Phong Điền, ba chén cháo thơm phức bốc khói nghi ngút. Ngồi chồm hổm trước mũi ghe, Hai Khóm lầm thầm khấn vái:
- Lạy đức Phật thích ca, Phật bà Quan âm, cửu huyền thất tổ, bà cậu dìa chứng giám, phò hộ cho vợ chồng con buôn may, bán đắt, khỏe mạnh, năm tới con Mận được vô lớp một
Mô Phật!
Trong ghe, Thắm vợ Khóm đang lui cui sửa soạn lại mấy bộ quần áo tươm tất để mặc trong ba ngày Tết. Cái đèn măng-sông cuối ghe sáng hừng hực phát ra tiếng kêu khè khè. Con Mận ngủ say dù hồi chạng vạng nó dặn Thắm “Chừng nào trên bờ người ta bắn pháo bông, mẹ nhớ kêu con thức dậy coi chơi”. Dặn cho có dặn chớ mới tám, chín giờ tối nó đã chui tọt lên võng ngủ ngon lành. Tội nghiệp. Con nhỏ hồi sanh ra tới giờ chỉ ở trên ghe. Thú vui của nó là đùa giỡn, tưng tiu với con chó phóc lai Nhật mà ngoại cho cách nay bốn năm. Rảnh hơn một chút nó coi phim hoạt hình trên “ti di” rồi cười khanh khách một mình. Thắm nhớ có lần dẫn nó lên bờ đi chợ Phong Điền, đi ngang trường học thấy mấy đứa nhỏ trạc tuổi nó đeo cặp táp tới trường, nó hỏi:
- Chừng nào con mới được đi học hả mẹ ?
- Ờ. Năm tới. - Thắm nói nhỏ.
- Mẹ nói thiệt nghe - Mận hớn hở ra mặt.
Thấy con mừng rỡ. Thắm càng thấy xót xa cho con. Cái nghiệp thương hồ mua bán trên sông đã đeo mang vào cuộc đời của hai vợ chồng gần mười năm qua và cũng chưa biết tới bao giờ chấm dứt. Vùng sông nước miệt Cần Thơ, Cà Mau, Rạch Giá, Trà Vinh
vợ chồng chị thuộc lòng, sông khúc nào cạn, khúc nào sâu, khúc nào hay có sóng lớn. Đâu chỉ vậy, còn phải biết tranh thủ đoạn nào nước lớn, nước ròng chạng mấy giờ để tắt máy thả rề hay chỉ chạy “ga ăng ty” cho đỡ hao tốn xăng cộ. Còn phải biết rõ miệt nào “hút” loại trái cây gì để chở hàng kịp chuyến. Số điện thoại mấy tay vựa trái cây các tỉnh được ghi chép cẩn thận trong cuốn tập học trò nhét ở mui ghe. Chỗ nào còn thiếu chịu, dặn hàng chuyến sau cũng được gạch bằng viết đỏ để khỏi quên.
 |
|
|
Thắm nhớ hoài lần đầu gặp chồng cách nay đã trên mười năm, cũng vào dịp gần Tết. Ngày đó chị được tiếng là nết na, thùy mị ở xóm ven sông Ngã Năm Thạnh Trị. Đi học về là Thắm lao ngay vào công việc mua bán ở cái vựa trái cây với cha mẹ phía sau nhà. Ghe nào, ở miệt nào, chủ nhân là ai, thường bán loại trái cây nào, bao lâu tới bán một lần, chị đều nhớ rất rõ. Thấy Thắm xinh đẹp, đảm đang, nhiều chủ ghe vốn là bạn hàng thân thiết với gia đình chị ngỏ lời dạm hỏi cho con trai của họ, nhưng bao giờ cũng nhận được câu trả lời khéo: chuyện đó tính sau, cháu nó còn đi học chưa nghĩ tới chuyện hôn nhân. Vậy mà
- Năm nay bây có về quê ăn Tết hôn? Tiếng ông Tám, ba Thắm, ôn tồn hỏi chuyện người thanh niên cao dong dỏng, đang chất khóm lên vựa.
- Dạ không. Ba má con mất hết rồi. Nhà hổng còn ai. Thôi ăn Tết xứ người vậy bác ơi!
- Tội chưa. Bây tên gì, bao nhiêu tuổi rồi? Tuổi con gì ?
- Dạ con tên Khóm. Quê ở Vị Thanh. Năm nay con hai mươi bốn tuổi.
- Mà sao tía má bây đặt tên bây là Khóm vậy?
- Dạ. Ba má con buôn bán trên sông đã mấy mươi năm, nhiều nhất là trái khóm nên đặt tên con là Khóm để nhớ đời vậy thôi.
- Ra vậy. Thôi, nếu bây hổng dìa quê thì neo ghe ở đây ăn Tết với tao cho vui. Có chi dùng chi mà - Ông cười khà khà.
Năm đó, gia đình Thắm có thêm một người khách lạ. Hổng biết ba chị nghĩ sao chớ thấy cái bản mặt len lén dòm mỗi khi chị đem bánh mứt, trà rượu ra mời khách thì Thắm đã nổi quạu. Người đâu mà đáng ghét quá trời. Đã vậy mỗi đêm, người ấy lại đem cây đờn ghi-ta phím lõm ra đờn rồi cất lên nhiều bài vọng cổ mùi mẫn như oán than cho số phận lênh đênh sông nước của mình, như trách móc duyên số cô đơn, than vãn mối tình si đã bén mà nói chẳng nên lời. Thắm nhớ hoài cái đoạn “Chỉ cách em vài bước chân thôi mà ngập ngừng không dám nói, kiếp thương hồ rày đây mai đó biết có ai thương để nên nghĩa vợ
chồng
”. Ban đầu Thắm bực mình không chịu được, nhưng rồi hôm nào không nghe tiếng ca chị lại thấy thiếu vắng một cái gì khó tả. Ngẫm lại cũng thấy tội nghiệp “người ta”, mồ côi cha lẫn mẹ.
Đêm mùng hai Tết năm đó, ba Thắm đột quỵ. Khóm là người cõng ông xuống ghe nổ máy chạy một mạch ra bệnh viện tỉnh. Bác sĩ nói chậm vài phút nữa thôi là ông đã theo ông theo bà. Ngày xuất viện, cũng chính Khóm lại cõng ông xuống ghe rồi lại cõng lên tới tận giường với nụ cười chơn chất. Lần đầu tiên Thắm thấy nụ cười của người thanh niên ấy sao thật có duyên, đáng yêu lạ. Vậy rồi họ cưới nhau. Đám cưới làm bên đàng gái nhưng cũng đủ đầy lễ nghĩa với bà con lối xóm đến dự chật nhà.
- Thôi bây “giải nghệ”, bỏ sông lên bờ đi. Còn tính tới tương lai sắp nhỏ nữa. Ông Tám khuyên Khóm.
- Con hiểu ba má thương tụi con lắm. Nhưng con buôn bán quen rồi, lên bờ buồn lắm, đi vầy cũng để nhớ về ba má con hồi còn sống. Vả lại bây giờ nghiệp thương hồ cũng không mấy vất vả như trước. Máy móc, ghe cộ, thông tin liên lạc giờ tiện lợi và nhanh lắm, có gì thì cứ “a lô” là xong mà. Khóm nói.
Biết tánh khí thằng rể nên ông Tám không bàn tới bàn lui. Vậy là vợ chồng Khóm Thắm lênh đênh trên sông xấp xỉ mười năm rồi. Hầu hết chỉ đón Tết trên sông. Buôn bán mà. Suy cho cùng đâu phải chỉ có họ ăn Tết xa nhà mà còn biết bao mảnh đời tương tự. Gì chớ chiều ba mươi ghe xuồng buộc san sát nhau để chuẩn bị cúng kiến, ca hát nghêu ngao, chuẩn bị quần áo, mứt bánh nhang đèn, đồ ăn ba ngày Tết
Miệt mài kiếm sống từ năm nầy qua năm nọ, hôm đưa Mận lên bờ sắm Tết, Thắm mới nhớ việc Mận chưa từng đến trường.
- Anh tính coi, vụ học hành của con Mận giờ phải làm sao? Hổng lẽ để nó học bấp bõm như mình...
- Tui cũng nghĩ nát óc đây. Học ở dưới quê thi hổng ai coi chừng. Theo ghe đi bán rày đây mai đó chỗ đâu mà học. Thấy nó tui cũng đứt ruột đứt gan. Hay là
- Là sao?
- Năm tới mình đưa con Mận về Thạnh Trị ở với ba má để tiện việc học hành. Xa thì nhớ nhưng không thể để con mù chữ.
- Ờ. Anh tính vậy, tui ưng ý lắm. Còn mình ?
- Mình sao? - Khóm nheo mắt nhìn vợ trìu mến.
- Thì chuyện hôm trước tui nói với anh rồi đó.
- Bán ghe lên bờ mần ăn hả? Tui nghĩ kỹ lắm rồi. Kiếp thương hồ tui mang từ nhỏ khó mà bỏ được. Lên bờ, tui nhớ sông không chịu nổi, nhớ cảm giác tự do tự tại khi ghe xuồng của mình giữa trời nước bao la
- Thôi. Anh nói chuyện giống y chang mấy ông nhà văn, toàn chuyện đi mây về gió không hà - Thắm cười trêu chọc.
- Thì tui cũng sắp thành nhà văn rồi đây. Nói thiệt nghe, mấy cha nhà báo, nhà văn viết chuyện đón Tết trên sông ngon hơn tui, hay hơn tui mới là lạ. - Khóm cười cà khịa.
Tiếng chú Hai Tửng Sóc Trăng từ chiếc ghe bên cạnh nói vọng sang:
- Mầy cúng rồi chưa Khóm? Sắp tới giao thừa rồi. Leo qua ghe tao ăn bữa cơm cuối năm nè.
- Nhớ xách cây đờn qua luôn - Tiếng chú Tám Gành Hào nói chen vào.
Tiếng lụp bụp từ những trái pháo bông đầu tiên bắn lên bầu trời kéo theo những tia sáng muôn màu. Tiếng người reo vang khắp trời làm con Mận ngồi dậy đi ra trước mũi ghe ngắm những chùm sáng rực rỡ và cười thỏa thích. Lần đầu tiên nó nhìn thấy pháo bông. Tiếng đàn trầm bổng của Khóm lại vang lên hòa theo giọng hát thiệt mùi của chú Tám Gành Hào trong đêm trừ tịch. “ Có ai hiểu được nỗi lòng của những người con xa xứ. Đón giao thừa nơi xứ người đất lạ, uống chén rượu đêm xuân mà thổn thức nhớ quê nhà
”.