19/12/2009 - 20:59

Tập thơ “Lời ru ngọn cỏ”* của Bùi Văn Bồng - Một chặng đường thơ của người lính

Tập thơ “Lời ru ngọn cỏ” của tác giả Bùi Văn Bồng là một tập thơ chuyên đề về người lính, về chiến tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là món quà mừng kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2009).

Nhà thơ – đại tá Bùi Văn Bồng là một người lính nên anh luôn song hành cùng người lính với bao nỗi gian truân, vui buồn, hy vọng đi suốt từ thời chiến tranh đến hòa bình với những năm tháng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Lời ru ngọn cỏ” như là lời tri ân đối với những người con của dân tộc đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân và những người lính đang hiến dâng phần đời còn lại của mình để dựng xây đất nước.

Tập thơ có 65 bài được sáng tác ở nhiều thời điểm khác nhau như 65 bông hoa - tượng trưng cho 65 năm tuổi của quân đội ta. Nhà thơ Bùi Văn Bồng rất khâm phục cha anh trong kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ, thiếu thốn vẫn làm nên chiến thắng:

Đoàn quân lớn lên từ không đến có
Từ nhỏ nhoi thành cao lớn phi thường
Cũng nhờ mỗi củ khoai hạt lúa
Nhờ hòn than giấu lửa suốt mùa mưa.

Bàn chân anh hầu như đã đặt lên khắp mọi miền đất nước trong những ngày cầm súng chiến đấu và cầm bút khi hòa bình. Mỗi bài thơ đều toát lên chất lính rất đậm qua cách nhìn, cách cảm chân thành mà sâu lắng. Đằm thắm và da diết nhất vẫn là những ký ức về đồng đội nơi chiến trường khói lửa năm xưa:

Nhớ rừng năm ấy bom rung
Chao nghiêng cánh võng buộc chung cây sồi

(Cánh rừng năm ấy)

Và hôm nay “Dấu chân thời gian”đã hằn in lên mái tóc xanh của người vợ trẻ:

Sông vẫn chảy và đôi bờ xanh mướt
Tóc người đàn bà pha sương.

Các anh ra đi khi tuổi chỉ mới đôi mươi và không ít người nằm lại nơi chiến trường ác liệt. Những người mẹ, người vợ chỉ còn biết:

Trước bàn thờ hương hoa sớm tối
Giọt lệ buồn khóe mắt long lanh.

Nhìn lại những kỷ vật của đồng đội còn sót lại, như: một chiếc bi đông, một chiếc ba lô, một cái mũ cối hay một lá thư tình... lòng anh rưng rưng:

Tôi cầm kỷ vật ngẩn ngơ
U Minh đầu tháng bất ngờ trăng lên

(Lá thư kỷ vật)

Sự hy sinh của các anh là để cho “Đất nước ta nở hoa Độc lập, kết trái Tự do” (Bác Hồ). Đó là một sự bất tử muôn đời:

Người hy sinh đất hồi sinh
Trái tim hóa ngọc lung linh giữa đời...

Biết bao địa danh làng quê, sông núi như ùa vào thơ anh ở nhiều góc độ khác nhau, được chiếu rọi bởi cái nhìn của người lính. Những miền quê ấy, cánh rừng ấy ghi dấu chiến công hiển hách của anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước. Đó là Tầm Vu, lộ Vòng Cung, Côn Đảo, Trường Sa, Lộc Ninh, Phước Long, Củ Chi, Vàm Cỏ Đông, Trà Vinh, Cần Thơ, Cà Mau, Mường Lèo, Tà-vát,... Chỉ nhìn những chiếc lá bàng màu đỏ sậm ở Côn Đảo mà trước mắt anh hiện lên:

Khi gió cát chuyển mùa trên Côn Đảo
Những cây bàng cuối vụ đỏ lá bay
Cái màu đỏ trên sắc cờ năm ấy
Máu đào rơi còn nhuộm những áng mây

(Lá bàng Côn Đảo)

Làm dịu đi nỗi cháy bỏng đớn đau của chiến tranh, anh có những vần thơ tươi mới về tình yêu của người lính với nhiều cung bậc ở các bài: Bến trăng, Tình yêu nửa đời, Phù sa và nắng, Chiều mưa Giai Xuân, Tình yêu lính đảo, Đổi gió, Khoảng trời thông xanh, Cánh ô đợi chờ, Chiều xa, Con sóng... Ta hãy cùng vui và sẻ chia với những anh lính đảo ở Trường Sa:

Lính đảo nói rằng lính đảo thương
Một cô bạn học buổi tan trường
Mắt như tiên nữ sa trần thế
Mái tóc đen mềm ai ướp hương.

(Tình yêu lính đảo)

Hoặc, nếu có chia ly, hối tiếc thì vẫn là một tình yêu đẹp:

Em chưa kịp nói lời yêu
Mắt ai đã cháy rực nhiều ánh sao
Tay mềm nhẫn cưới chưa trao
Trăng rơi đáy nước làm chao mạn thuyền.

(Bến trăng)

Có lẽ cái chất lính dí dỏm và lãng mạn trong anh không bao giờ cạn nên ở nhiều bài thơ về quê hương, đất nước, lễ hội, gia đình, tình bạn, tình yêu của anh luôn tươi mới, mang đậm sắc màu cuộc sống, làm vợi đi nỗi đau chiến tranh, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Ta hãy cùng anh vào “Lễ hội mùa xuân” để được chiêm nghiệm:

Lúng liếng mắt ai mở gió vin cành
Mùa trái chín ngọt lành quê ngoại
Những chân trần dính phù sa dầu dãi
Tụ về đây lễ hội mùa xuân.

Bùi Văn Bồng biết chắt lọc những chi tiết đặc sắc nhất, độc đáo nhất của cuộc sống để đưa vào từng câu thơ. Cùng một đề tài nhưng anh khéo đan xen nhiều chủ đề về chiến tranh, tình yêu, quê hương, gia đình, bè bạn, hiện tại, quá khứ... với cái nhìn đa chiều, đa cảm, sự nghĩ suy tinh tế làm cho hình tượng thơ trở nên lung linh, đa nghĩa, vừa mang tính truyền thống vừa hiện đại.

Mừng quân đội ta 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, mừng kỷ niệm 20 năm Ngày hội quốc phòng toàn dân, đọc tập thơ “Lời ru ngọn cỏ”, ta càng thấy gần gũi, yêu thương người lính, cảm nhận niềm vui chiến thắng cùng những nỗi đau mất mát, hy sinh để có cuộc sống đổi mới hôm nay. Dưới chân tượng đài chiến thắng vươn trời mây ở bìa 4, tác giả đã đề thơ: “Sừng sững trời mây đài chiến thắng / Rạng đến mai sau thuở hào hùng”. Đó là một truyền thống cực kỳ quý báu, làm hành trang cho biết bao thế hệ tiếp bước cha anh để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lê Xuân

* NXB Hội Nhà văn – Tháng 11- 2009

Chia sẻ bài viết