29/04/2020 - 06:54

Ông Nguyễn Ngọc Hè, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ

Đáp ứng đủ về số lượng, chuẩn về chất lượng nhu cầu lương thực, thực phẩm 

Thực hiện Kết luận số 53-KL/TW ngày 5-8-2009 của Bộ Chính trị về Đề án “An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020”; Nghị quyết 63/NQ-CP ngày 23-12-2009 của Chính phủ về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ngành nông nghiệp TP Cần Thơ cơ cấu lại trồng trọt theo hướng xây dựng vùng sản xuất tập trung; áp dụng kỹ thuật tiên tiến gắn với bảo quản, chế biến, tiêu thụ nông sản theo chuỗi đáp ứng yêu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhờ vậy, những năm qua, thành phố không những đảm bảo nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ mà còn đóng vai trò trung tâm cung ứng, phân phối lương thực thực phẩm đến các tỉnh, thành trong cả nước và xuất khẩu. Trao đổi với Phóng viên Báo Cần Thơ về vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Hè, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, cho biết:

- TP Cần Thơ là cửa ngõ giao lưu chính, là đầu mối giao thương về nông sản quan trọng của vùng ĐBSCL. Mặc dù diện tích đất nông nghiệp của Cần Thơ chỉ 114.000ha, chiếm khoảng 3% diện tích vùng ĐBSCL nhưng do vị trí địa lý, thủy văn thuận lợi nên sản xuất nông nghiệp đa dạng với các loại nông sản ưu thế của vùng ĐBSCL. Hiện 3 chuỗi giá trị sản xuất nông sản chính của thành phố là lúa, thủy sản và cây ăn trái. Trong đó, lúa là cây trồng lợi thế của địa phương, với tổng diện tích canh tác khoảng 81.000ha, cung cấp sản lượng lúa hằng năm đạt trên 1,3 triệu tấn, hệ số vòng quay đất 2,69 lần/năm. Thủy sản là thế mạnh thứ hai sau cây lúa với diện tích nuôi trồng thủy sản khoảng 8.000ha, sản lượng khoảng 200.000 tấn/năm. Thành phố cũng đã phát triển diện tích vườn cây ăn trái trên 20.120ha, hằng năm cung ứng ra thị trường 130.000 tấn trái cây.

* Các vùng chuyên canh đóng vai trò quan trọng đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ, cung ứng trong nước và xuất khẩu. Vậy Cần Thơ đã quan tâm như thế nào tới vấn đề này, thưa ông?

-  TP Cần Thơ đã hình thành 6 vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, phát triển theo chuỗi gắn với thị trường tiêu thụ, bao gồm: Xây dựng vùng lúa chất lượng cao liên kết theo “Cánh đồng lớn”; Xây dựng vùng rau an toàn gắn với nhu cầu thị trường; Phát triển vùng trái cây đặc sản gắn với du lịch sinh thái; Xây dựng mô hình nông nghiệp đô thị, ven đô thị; Phát triển vùng chăn nuôi liên kết đảm bảo an toàn sinh học; Phát triển vùng nuôi thủy sản theo tiêu chuẩn chất lượng.

Các vùng chuyên canh này đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ, cung ứng trong nước và xuất khẩu. Đối với việc xây dựng vùng lúa chất lượng cao, đến năm 2020, diện tích đất lúa của thành phố duy trì hơn 81.000ha. Song song đó, thành phố dự kiến mở rộng diện tích lúa liên kết theo “Cánh đồng lớn” trong năm 2020 đạt bình quân 40.000ha/vụ. Đối với vùng chuyên canh rau an toàn, từ năm 2009 đến nay, thành phố vận động nông dân tổ chức 75 mô hình liên kết sản xuất chuyên canh rau; mỗi mô hình khoảng 10ha, với 25-30 hộ tham gia. Ngoài ra, thành phố còn có vùng sản xuất rau quả tươi chuyên ứng dụng công nghệ cao quy mô 750ha. Trên địa bàn thành phố cũng hình thành các vùng chuyên canh cây ăn trái kết hợp với du lịch nông nghiệp tại quận Cái Răng, Bình Thủy và huyện Phong Điền... Ở lĩnh vực thủy sản, thành phố đẩy mạnh triển khai xây dựng vùng nuôi thủy sản áp dụng các tiêu chuẩn GAP, ASC, SQF, BMP… nhằm cung cấp nguồn sản phẩm hàng hóa chất lượng cao phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.

Vùng lúa chất lượng cao tại xã Thạnh Lợi, huyện Vĩnh Thạnh.

* Theo ông, đâu là những khó khăn của Cần Thơ trong phát huy lợi thế, tiềm năng của ngành nông nghiệp thành phố nói chung và các vùng chuyên canh nói riêng?

- Theo dự báo, nhu cầu về lương thực trong và ngoài nước tiếp tục tăng cao trong thời gian tới. Tuy nhiên, phải nhìn nhận một thực tế là hiện nay chúng ta chưa phát huy hết lợi thế, tiềm năng của ngành nông nghiệp; chất lượng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông sản chưa cao nên hiệu quả mang lại từ kinh tế nông nghiệp chưa như mong đợi. Vấn đề liên kết “4 nhà” được khẳng định là hướng đi đúng nhưng quá trình thực hiện vẫn còn lỏng lẻo, hiệu quả liên kết chưa cao. Thành phố định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao nhưng công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp chưa nhiều; chất lượng hoạt động của các mô hình kinh tế tập thể còn hạn chế, các hợp tác xã kiểu mới phát triển chưa đủ mạnh...

Những hạn chế nói trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trong đó, đáng chú ý là do bình quân diện tích đất sản xuất trên đầu người ít, phân tán nên việc tổ chức sản xuất theo hướng tập trung, quy mô lớn để ứng dụng khoa học kỹ thuật đồng bộ, tăng thu nhập để cải thiện đời sống nông dân vẫn là bài toán nan giải. Bên cạnh đó, tình hình biến đổi khí hậu, sạt lở bờ sông, hạn hán, xâm nhập mặn, dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi ngày càng nhiều ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng nông sản. Đây là những khó khăn, thách thức lớn, đòi hỏi vừa phải có những giải pháp ứng phó trước mắt kịp thời, vừa có chiến lược lâu dài và nỗ lực to lớn của toàn ngành nông nghiệp.

* Như vậy, ngành nông nghiệp thành phố định hướng và có giải pháp nào góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và phục vụ xuất khẩu trong thời gian tới?

- Giai đoạn 2021-2030, thành phố định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp đô thị, nông nghiệp hữu cơ liên kết theo chuỗi giá trị. Đồng thời, phát huy vai trò trung tâm động lực của vùng ĐBSCL với các sản phẩm hàng hóa nông sản và dịch vụ nông nghiệp mang tính đặc trưng cùa vùng. Ở giai đoạn này, thành phố đặt mục tiêu duy trì sản lượng lúa hằng năm ổn định trên 1 triệu tấn, trái cây 130.000 tấn, thịt các loại 47.000 tấn, thủy sản 268.000 tấn.

Để đạt được mục tiêu này, ngành nông nghiệp thành phố tập trung vào 4 nhóm giải pháp chính: Quy hoạch chung và quy hoạch đất trồng lúa; chính sách đối với nông dân, địa phương và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lúa gạo; phát triển hạ tầng và khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Theo đó, về chính sách đối với nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lúa gạo, thành phố tăng cường năng lực chế biến và xuất khẩu các sản phẩm chủ lực của doanh nghiệp nhằm tạo liên kết bền vững người sản xuất và người chế biến. Đồng thời, hoàn chỉnh cơ chế, chính sách điều tiết lợi ích hợp lý, hài hòa giữa các chủ thể tham gia chuỗi gia trị gia tăng đối với nông sản hàng hóa. Thành phố cũng tập trung phát triển hạ tầng và khoa học công nghệ thông qua việc xây dựng các vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và các khu nông nghiệp công nghệ cao. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, thành phố sẽ triển khai các chính sách hỗ trợ theo đối tượng ngành nghề và theo vùng; đưa đi đào tạo trong và ngoài nước các cán bộ trẻ có trình độ, tâm huyết hoặc khuyến khích, thu hút nguồn nhân lực có trình độ, kinh nghiệm về làm việc tại thành phố…

* Xin cảm ơn ông!

MỸ THANH (thực hiện)

Chia sẻ bài viết