19/02/2013 - 09:44

Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử

Ngày 15-4-2013, Thông tư 01/2013/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp (ĐKDN) có hiệu lực. Theo đó, tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn hình thức ĐKDN qua mạng điện tử hoặc nộp hồ sơ đăng ký trực tiếp tại Phòng Đăng ký kinh doanh (ĐKKD). Phòng ĐKKD khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tìm hiểu thông tin, thực hiện ĐKDN qua mạng điện tử.

Để ĐKDN qua mạng điện tử, tổ chức, cá nhân có thể sử dụng chữ ký số công cộng hoặc sử dụng Tài khoản ĐKKD. Hồ sơ ĐKDN qua mạng điện tử được coi là hợp lệ khi các thông tin ĐKDN được nhập đầy đủ và chính xác theo thông tin trong các văn bản điện tử; có đầy đủ các giấy tờ theo quy định như hồ sơ nộp bằng bản giấy và được chuyển sang dạng văn bản điện tử. Đối với trường hợp sử dụng chữ ký số công cộng, số lượng chữ ký và người ký trong hồ sơ đăng ký điện tử phải tương ứng với số lượng và người ký trong hồ sơ bằng bản giấy; đối với trường hợp không sử dụng chữ ký số công cộng, hồ sơ đăng ký điện tử phải được xác thực bằng Tài khoản ĐKKD của người đại diện theo pháp luật…

Trình tự, thủ tục ĐKDN qua mạng điện tử sử dụng chữ ký số công cộng

Người thành lập doanh nghiệp kê khai thông tin, tải văn bản điện tử, ký số vào hồ sơ đăng ký điện tử và thanh toán lệ phí qua mạng điện tử theo quy trình trên Cổng thông tin ĐKDN quốc gia. Sau khi hoàn thành quy trình gửi hồ sơ đăng ký, người thành lập doanh nghiệp sẽ nhận được Giấy biên nhận hồ sơ ĐKDN qua mạng điện tử. Phòng ĐKKD có trách nhiệm xem xét, gửi thông báo qua mạng cho doanh nghiệp để yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ trong trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ. Khi hồ sơ đã đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận ĐKDN (GCNĐKDN), Phòng ĐKKD gửi thông tin sang cơ quan thuế để tạo mã số doanh nghiệp. Sau khi nhận được mã số doanh nghiệp từ cơ quan thuế, Phòng ĐKKD cấp GCNĐKDN. Doanh nghiệp có thể nhận trực tiếp GCNĐKDN tại Phòng ĐKKD hoặc đăng ký và trả phí để nhận qua đường bưu điện. Quy trình ĐKDN qua mạng điện tử cũng áp dụng đối với việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, thông báo lập địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp.

Trình tự, thủ tục ĐKDN không sử dụng chữ ký số công cộng

Người thành lập doanh nghiệp kê khai thông tin, tải văn bản điện tử của các giấy tờ chứng thực cá nhân tại Cổng thông tin ĐKDN quốc gia để được cấp Tài khoản ĐKKD. Người thành lập doanh nghiệp sử dụng Tài khoản ĐKKD để kê khai thông tin, tải văn bản điện tử, xác thực hồ sơ và thanh toán lệ phí qua mạng điện tử theo quy trình trên cổng thông tin ĐKDN quốc gia. Sau khi hoàn thành quy trình gửi hồ sơ đăng ký, người thành lập doanh nghiệp sẽ nhận được Giấy biên nhận hồ sơ ĐKDN qua mạng điện tử. Phòng ĐKKD có trách nhiệm xem xét, gửi thông báo qua mạng điện tử cho doanh nghiệp để yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ trong trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ. Khi hồ sơ đã đủ điều kiện cấp GCNĐKDN, Phòng ĐKKD gửi thông tin sang cơ quan thuế để tạo mã số doanh nghiệp. Sau khi nhận được mã số doanh nghiệp từ cơ quan thuế, Phòng ĐKKD thông báo qua mạng điện tử cho doanh nghiệp về việc cấp GCNĐKDN.

Sau khi nhận được thông báo về việc cấp GCNĐKDN, người thành lập doanh nghiệp phải nộp một bộ hồ sơ ĐKDN bằng bản giấy kèm theo Giấy biên nhận hồ sơ ĐKDN qua mạng điện tử đến Phòng ĐKKD. Sau khi nhận được hồ sơ bằng bản giấy, Phòng ĐKKD đối chiếu đầu mục hồ sơ với đầu mục hồ sơ doanh nghiệp đã gửi qua mạng điện tử và trao GCNĐKDN cho doanh nghiệp nếu nội dung đối chiếu thống nhất. Nếu quá thời hạn 30 ngày, kể từ ngày gửi thông báo về việc cấp GCNĐKDN mà Phòng ĐKKD không nhận được hồ sơ bằng bản giấy thì hồ sơ đăng ký điện tử của doanh nghiệp không còn hiệu lực. Doanh nghiệp có thể nhận trực tiếp GCNĐKDN tại Phòng ĐKKD hoặc đăng ký và trả phí để nhận qua đường bưu điện.

Người nộp hồ sơ chịu trách nhiệm về tính đầy đủ và chính xác của bộ hồ sơ nộp bằng bản giấy so với bộ hồ sơ được gửi qua mạng điện tử. Trường hợp bộ hồ sơ nộp bằng bản giấy không chính xác so với bộ hồ sơ được gửi qua mạng điện tử mà người nộp hồ sơ không thông báo với Phòng ĐKKD tại thời điểm nộp hồ sơ bằng bản giấy thì được coi là giả mạo hồ sơ và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

     L.PHƯƠNG (thực hiện)

Chia sẻ bài viết