26/07/2014 - 20:04

Về phép

Truyện ngắn  TRẦN HUY MINH PHƯƠNG

Đồng đội thường đùa trung sĩ Khoa là “lính bẩm sinh” bởi ông nội, cha và bây giờ là Khoa đều theo nghiệp cầm súng bảo vệ quê hương. Người yêu của Khoa cũng là lính, quân y, tên Thoa.

Còn vài hôm nữa là đến ngày tri ân những người đã hy sinh, những người lính đã mất một phần xương máu vì độc lập dân tộc, Khoa xin nghỉ phép ba ngày về quê phụ ông và cha việc vườn tược, đồng áng. “Cũng cần tri ân những người lính trong chính gia đình mình nữa chứ”, Khoa tự nhủ.

***

Một năm Khoa chỉ có vài ngày chính thức là thành viên trong gia đình, bởi ngoài nhiệm vụ tại đơn vị, Khoa còn phấn đấu học thêm một bằng đại học, lấy thêm bằng Anh văn, vi tính. Ông nội đã lớn tuổi lắm rồi. Cha cũng đã ngoài lục tuần. Nên lần nào về nhà Khoa cũng dành trọn thời gian ở nhà, quanh quẩn bên ông và cha cho hai cụ sai vặt, nói chuyện đời xưa đời nay. Sau một ngày giúp cha làm cỏ vườn, vét mương đắp bờ, Khoa thường ngồi trên bộ ngựa bên hông nhà, nhìn ra bờ kênh xáng, nghe gió mát rượi thổi quanh mà tự nhiên thấy bồi hồi.

Những lúc như vậy, ông nội thường đến ngồi cạnh Khoa, rồi một lúc sau cha Khoa sẽ châm bình trà, để ông nội nhấp giọng, kể chuyện ngày xưa. Khoa nghe đã nhiều lần, nhưng với Khoa, chưa bao giờ những câu chuyện của ông vơi sức hấp dẫn. Trong ánh hoàng hôn nhuộm vàng mái nhà, giữa những cơn gió thổi lào xào vườn cây, Khoa luôn tự hào nghe ông kể chuyện đánh Tây: “Nội với Tư Mẫn, Sáu Kích, Năm Ngang lúc trước là bộ tứ xung kích. Lính Tây dương không dám đi lẻ vào xóm mình đâu, vì nó từng ăn đạn nạng thun của Tư Mẫn, từng bị hố chông của Sáu Kích, Năm Ngang đâm thủng ruột”. Quấn lại cái khăn rằn trên đầu, nhìn ra đầu xóm thấy tụi trẻ chơi trò cút bắt, nội lại nói: “Có lần, nội với một thằng mũi lỏ đánh nhau trực diện, nó bị cái món võ không có trong sách vở của nội nện cho một trận, khóa tay nó gọn bân. Dịp đó, bọn nội lại có vũ khí xài…”. Nội cứ tỉ tê kể chuyện, Khoa và cha chăm chú lắng nghe. Có khi nói giữa chừng, ông nội bỏ vào trong nhà. Đó là lúc nội muốn giấu đi những giọt nước mắt khi nhớ đến chuyện đau thương, đồng đội đã hy sinh... Khoa thường nhìn dáng đi vững chãi của nội, vừa thấy tự hào vì được làm cháu của ông, vừa không khỏi lo lắng khi tuổi ông ngày càng cao, bệnh tật bắt đầu tấn công.

Chuyện của ông nội vừa dứt, Khoa quay sang cha: “Cha kể con nghe chuyện vượt Trường Sơn đi”. Nhưng thường thì cha của Khoa chỉ nói ngắn gọn: “Chiến đấu cho chính nghĩa, cho độc lập dân tộc và chúng ta đã chiến thắng, nhưng rất nhiều người đã hy sinh tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình, không có cơ hội nhìn thấy đất nước hòa bình, không thể chăm sóc cha mẹ già, em dại hay trở về vun xới mảnh vườn xưa…” Cha nói đến đó thì lặng lẽ nhìn mấy con gà con líp chíp theo mẹ bới đất tìm thức ăn. Cha vấn điếu thuốc gò rồi thả một cuộn khói vào khoảng không, chợt lặng đi vì nhớ đồng đội. Khoa biết, cha không nói nhiều, mà sống trọn nghĩa vẹn tình với đồng chí bằng những việc làm âm thầm.

Ở xóm Lung này, ai cũng biết cha của Khoa vẫn ngày ngày sang nhà bà Chín cách nhà Khoa độ trăm thước, làm việc nhà, việc vườn và chăm sóc bà như thể mẹ ruột. Bà Chín chỉ nhỏ hơn ông nội của Khoa vài tuổi, nhưng sức khỏe sa sút hơn, lưng còng, mắt bà chỉ còn thấy trong khoảng cách một cánh tay. Sang nhà bà Chín, cha Khoa sửa cái chuồng gà, xách nước đổ đầy lu trước sân, vun lại gốc bưởi, tưới nước vườn cam... Chớm tối, cha thắp nhang cho bác Ân, người con duy nhất của bà Chín, cũng là đồng đội cũ của cha Khoa. Sau đó ông giăng và tém mùng gọn gàng lại cho bà rồi mới về. Gần đến ngày Thương binh liệt sĩ, cha Khoa cùng các bác, các chú trong Hội Cựu chiến binh và lãnh đạo ấp, xã đi vận động cất nhà đồng đội, giúp đỡ các gia đình thương binh liệt sĩ gặp khó khăn.

Và những lần về phép, cha Khoa luôn nhắc nhở “Con phải hoàn thành tốt nhiệm vụ tại đơn vị. Đừng lo chuyện nhà. Mẹ con tuy mất sớm, nhưng quanh đây còn có cô dì chú bác chòm xóm phụ giúp nhau, cha cũng còn sức khỏe lo trong ngoài. Con may mắn là lính thời bình, nhưng không được lơ là nhiệm vụ rèn luyện và phải không ngừng học tập những kiến thức mới. Phải học để khi Tổ quốc cần thì con có đủ trí- dũng mà làm nhiệm vụ”. Những lời cha căn dặn, Khoa luôn ghi nhớ trong lòng và thêm thương, cảm phục cha. Mỗi khi Khoa khoe có thêm bằng cấp gì mới, cha lại nhắc nhở: “Đó cũng là chiến công, nhưng con đừng chểnh mảng, tự hài lòng với cái đang có”.

Lần về phép này, câu chuyện của hai cha con có thêm chủ đề mới sau lần Khoa đưa Thoa về ra mắt gia đình mấy tháng trước. “Chuyện cưới hỏi phải tính sơm sớm, nội đã già, mà con cũng đâu còn nhỏ nhít gì nữa…”. Nghe cha nhắc đến đó Khoa không còn vẻ hoạt bát lanh lẹ, mà lúng túng như gà mắc tóc, giống lần tỏ tình với Thoa. Khoa và Thoa yêu nhau đã hai năm, quả thật Khoa muốn “rước nàng về dinh” lắm rồi… Cha Khoa hiểu ý con, cười nói: “Thôi hết phép rồi trở về đơn vị, con và Thoa bàn bạc thời gian thích hợp cho đám cưới trong năm nay. Mẹ con có để lại đôi bông tai với vòng cẩm thạch, cha và nội sẽ liệu tính thêm sính lễ cho tươm tất…”

***

- Thằng Khoa lên kìa tụi mày ơi! – tiếng reo vui chào đón của đồng đội luôn khiến Khoa thấy vô cùng ấm áp như trở về nhà mình.

Khoa đem lũ khũ quà quê cho mọi người, ai cũng cười vui vẻ. Bây giờ Khoa chuẩn bị đi thăm Thoa, bàn việc hệ trọng đây. Thấy Khoa lui cui chọn chiếc áo lính mới và đẹp nhất, có tiếng trêu “Cưới vợ đi Khoa ơi! Đi thăm hoài mỏi chân, cưới về một nhà, khỏi tới lui”. Khoa tủm tỉm cười, rồi lại khoác chiếc áo chỉ mặc những khi có lễ lớn hay duyệt binh. Ngoài cửa, cơn mưa tháng bảy vừa dứt, ánh nắng vàng nhảy múa phản chiếu những giọt mưa còn bám trên tán lá, cành cây…

Chia sẻ bài viết