05/04/2010 - 20:57

Ung thư vú không chừa nam giới

Mặc dù xuất hiện ở nam giới với tỷ lệ thấp (khoảng 1% trên tổng số ca ung thư trên thế giới) nhưng ung thư vú đang trở thành mối lo ngày càng lớn đối với phái mạnh. Các bác sĩ cho biết tuy số lượng phụ nữ mắc ung thư vú cao gấp 100 lần đàn ông nhưng tỷ lệ tử vong ở cánh mày râu lại cao hơn, chủ yếu do chẩn đoán muộn và thiếu hiểu biết.

Theo thống kê tại Mỹ, mỗi năm có khoảng 1.990 ca ung thư vú ở nam giới được phát hiện và 450 ca tử vong, chiếm 0,5% số ca tử vong do ung thư hằng năm ở phái mạnh. Tại Anh, gần 250 ca được chẩn đoán mỗi năm trong khi ở Ấn Độ, số mày râu bị ung thư vú đang có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây, với tỷ lệ hiện chiếm hơn 2% số ca ung thư vú trên cả nước. Tại Việt Nam, mặc dù chưa có thống kê đầy đủ về số nam giới mắc căn bệnh này trên cả nước, nhưng trung bình mỗi năm riêng Bệnh viện Ung bướu TP Hồ Chí Minh tiếp nhận hai hoặc ba ca. Các số liệu trên cho thấy hiểu rõ các yếu tố nguy cơ và triệu chứng bệnh được xem là yếu tố hàng đầu giúp phòng ngừa và chữa trị hiệu quả căn bệnh nguy hiểm này.

 

Ở nam giới, tế bào ung thư có thể phát triển trong mô ngực phía sau núm vú. Nguyên nhân gây ung thư vú ở nam giới hiện vẫn chưa được xác định rõ. Tuy nhiên, thông thường, sự hiện diện quá mức của nội tiết tố sinh dục nữ (oestrogen) làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phái mạnh. Theo các chuyên gia, bệnh thường xuất hiện nhiều nhất ở người trên 60 tuổi, và thường rơi vào 1 trong 3 nhóm đối tượng sau:

* Có nhiều người thân (nam hoặc nữ) trong gia đình từng bị ung thư vú

* Có một người thân được chẩn đoán có khối u ở cả hai bên vú

* Có bà con (gần) được chẩn đoán ung thư vú trước 40 tuổi

Ngoài ra, nam giới có nhiều người thân trong gia đình mắc ung thư buồng trứng hoặc ruột kết cũng có nguy cơ phát triển ung thư vú. Trong một số trường hợp, nguy cơ mắc bệnh cũng xuất hiện ở người từng tiếp xúc nhiều với chất phóng xạ (khi còn trẻ) hoặc mắc hội chứng Klinefelter (rối loạn nhiễm sắc thể ở nam giới, người mắc bệnh chào đời có thêm ít nhất 1 nhiễm sắc thể X).

Triệu chứng phổ biến nhất của ung thư vú ở nam giới là vùng vú xuất hiện cục u, bên cạnh những dấu hiệu khác như sự thay đổi về kích thước và hình dạng bầu ngực, da vùng vú nổi u nhọt, núm vú rỉ mủ hoặc lún ngược vào trong, núm vú hoặc quầng vú nổi mụn rộp. Để chẩn đoán bệnh và xác định mức độ di căn của khối u, các bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhân thực hiện một trong các xét nghiệm bao gồm chụp nhũ ảnh, siêu âm, sinh thiết (rút dịch bằng kim) và thử máu.

Chẩn đoán và điều trị ung thư vú ở nam giới cũng tương tự như ở nữ giới, vì vậy, việc phát hiện sớm và tích cực điều trị sẽ làm tăng khả năng thành công. Chẳng hạn, trong giai đoạn I, khi khối u còn nhỏ (dưới 2 cm) và chưa di căn, cơ hội sống thêm ít nhất 5 năm của bệnh nhân là 96%. Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn IV, tức khối u đã lớn gây ảnh hưởng đến hạch bạch huyết và di căn đến các cơ quan khác, tỷ lệ sống sau 5 năm chỉ còn 24%. Với hầu hết nam giới, phẫu thuật là lựa chọn số một. Tuy nhiên, do mô vú ở nam giới không nhiều và khối u thường nằm gần núm vú nên không thể chỉ cắt bỏ khối u, mà phải cắt bỏ hoàn toàn tuyến vú nhằm ngăn ngừa bệnh tái phát. Bên cạnh đó, bệnh nhân cũng có thể được chỉ định các liệu pháp như dùng thuốc ức chế tế bào ung thư, trị liệu bằng kích thích tố, hóa trị, xạ trị. Những biện pháp này được dùng riêng rẻ, hoặc phối hợp, tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi tác, thể trạng và mức độ bệnh của bệnh nhân...

HOÀNG ĐIỂU
(Theo MedicineNet, MacMillan, Times of India)

Chia sẻ bài viết