Truyện ngắn: Vũ Thị Huyền Trang
Đất nước giải phóng, ông Thuận trở về từ chiến trường lành lặn. Ông ôm chầm lấy mẹ, trên vai áo bộ đội bạc màu tưởng như vẫn còn mùi súng đạn. Mẹ ông khóc suốt mấy đêm, cứ ôm chặt lấy ba lô của con trai mà khóc. Trong ba lô không có gì ngoài bộ quần áo người đồng đội của ông đã ngã xuống. Chiếc áo đã rách một miếng ở ngực, mẹ cắt vải từ áo của ông mang vá vào áo bạn cho lành. Ông thấy mẹ khóc thì bảo:
- Mẹ đừng khóc nữa. Mẹ đã khóc biết bao ngày dài biết bao đêm thẳm rồi. Giờ đến lúc mẹ phải cười lên. Con về rồi, vậy là đạn bom không giết nổi con. Con may mắn hơn biết bao nhiêu đồng đội khác.
- Trước kia mẹ khóc vì lo. Giờ mẹ khóc vì mừng. Con cứ để cho mẹ khóc.
Ông lẩm bẩm cười:
- Mẹ khóc hoài. Sao vẫn còn nước mắt?
Khi đó ông hơn hai mươi tuổi, trai tráng và vạm vỡ. Trên cơ thể ông có sẹo, ở lưng, ở chân và ngay trên đuôi mắt. Ông tránh nói về chiến tranh, những mất mát đớn đau của một thời bom đạn. Ông trở về đào ao thả cá, trồng trọt, chăn nuôi. Lặng lẽ lo cho mẹ và hai đứa em gái. Ba năm sau ngày trở về ông lấy vợ, sinh con. Cuộc sống tưởng cứ bình yên trôi đi thì bỗng nhiên ông phát bệnh. Ban đầu chỉ là những cơn đau nửa đầu chớp nhoáng. Nhưng sau đó những cơn đau kéo dài và ngày càng dữ dội hơn. Mẹ ông sợ có mảnh đạn nào đó găm trong đầu con trai mình nên giục ông đi khám, nhưng không thấy gì bất thường. Chỉ mình ông biết những cơn đau ấy là vết thương của người từng đi qua trận chiến. Nó không hiện hữu trên da thịt mà trong tâm hồn người lính. Đôi khi càng muốn quên thì lại càng ám ảnh. Cứ nhắm mắt vào là hình ảnh những đồng đội lại hiện ra. Ký ức như thước phim quay chậm dù lộn xộn nhưng rõ nét đến từng chi tiết
***
Khánh bẻ đôi phong lương khô chia cho ông. Ông than:
- Đã khát nước ăn thứ này vào càng khát.
- Cứ ăn đi chút nữa sẽ có món giải khát.
- Giữa rừng núi heo hút chỉ có muỗi vắt và bom đạn chứ có gì mà giải khát.
Khánh đang cười thì méo xệch vì nghẹn lương khô. Khánh lẻn đi đâu đó một lúc thì mang về mấy củ chuối quẳng cho ông nói "Đặc sản đấy. Ăn đi". Ký ức nhập nhoạng một khoảng tối đen thui. Tiếng nổ vang trời, giấc mơ cũng vỡ thành nghìn mảnh. Khánh nằm trên tay ông, không một lời trăng trối. Miếng bom găm vào lồng ngực trẻ. Ông thay cho bạn chiếc áo lành lặn của mình. Ông không khóc. Người ngã xuống trên môi còn nở nụ cười. Tỉnh giấc ông ngộp thở như thể sức nén của quả bom quá khứ vừa dội xuống vẫn chưa chịu lắng. Đầu ông giật từng cơn đau đớn. Không một loại thuốc giảm đau nào có thể giúp được ông. Người mẹ già nhìn con trai mình vật vã nằm co quắp trên giường. Bà mang chiếc ba lô, bên trong có bộ quần áo của đồng đội con mình, đặt lên bàn thờ rồi thắp mấy nén nhang thơm. Bà lẩm bẩm khấn, thỉnh thoảng lại lấy tay chùi mắt. Nụ cười tươi rói ngày con trai bà trở về từ chiến trường đã không còn nữa. Dù lúc nào con trai bà cũng bảo "Chiến tranh qua lâu rồi mẹ ạ. Chúng ta phải quên đạn bom đi để sống".
Nhiều năm qua những cơn đau đầu vẫn hành hạ ông Thuận. Chúng thường xuất hiện vào lúc nửa đêm. Khi xung quanh yên tĩnh thì tâm trí ông trở nên dữ dội. Ông mơ thấy mình đang nằm trong lán trại giữa rừng. Trời mưa rả rích. Ông và đồng đội đều không ngủ được. Khương bị thương ở mạn sườn vẫn chưa khỏi. Đêm đến vết thương tấy nhức. Khương yêu cầu cả bọn không được kể truyện hài. Mỗi lần không nhịn được bật cười là đánh động cơn đau. Đời lính thường lấy nụ cười để tạm quên đi nỗi mất mát và cả lòng thù hận. Mà không được kể chuyện hài thì biết phải nói gì? Chẳng lẽ nói với nhau về những đồng đội vừa ngã xuống. Nên tất cả đều im lặng. Cho đến khi tiếng Du vang lên:
- Ngoài Bắc chắc là đang nắng. Người yêu em bảo "Nắng xuân ngọt lịm" mấy anh ạ. Mà đúng thế thật. Ngọt như môi và thơm như tóc của nàng.
Lời của Du càng khiến tất cả lại im lặng, thả hồn về một góc quê nhà. Mưa ngày càng nặng hạt. Vài người phải di chuyển chỗ ngủ vì mưa dột. Gió lạnh, vài tiếng ho khan vang lên. Kha nằm vờ ngủ từ đầu câu chuyện giờ mới lên tiếng:
- Sau này giải phóng mọi người sẽ làm nghề gì?
- Thì về quê với thầy u rồi cưới nàng làm vợ. Đẻ một bầy con để nghe chúng léo nhéo suốt ngày. Rừng ruộng thiếu gì. Đất nước hòa bình cứ yên tâm lao động xây dựng mái nhà.
- Em thì sẽ xin đi dạy học. Ước mơ từ nhỏ của em là được làm thầy giáo dạy văn. Đứng trước lũ trò nhỏ đọc những câu thơ thấm đẫm tình quê hương đất nước: "Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường/ Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ/ Ai bảo chăn trâu là khổ/ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
" (1).
- Thế thì tớ sẽ gửi con tớ vào lớp cậu.
- Anh thì chỉ mong được về quê nắm chặt tay người mình yêu đi giữa cánh đồng tràn ngập nắng tháng tư
* * *
Ông Thuận ngó nắng tháng tư đang liếm dần vào giữa cửa nhà bỗng buột miệng gọi tên các đồng đội của mình. Nước mắt ông từ từ chảy ra. Đôi lông mày nhíu lại nhăn nheo già nua khắc khổ. Người mẹ già đang ngồi nhai trầu quay sang bảo con trai:
- Hay là con đi thăm anh em một chuyến. Tâm bệnh chẳng thuốc thang nào chữa nổi con ơi. Biết đâu vào trong đấy lại tự nhiên hết bệnh.
Ông Thuận dã dứt khỏi dòng hồi tưởng quay sang:
- Con có bệnh tật gì đâu. Thỉnh thoảng nhớ anh em một chút thôi mà mẹ.
- Nhớ thì thăm. Sao mà khổ sở.
- Nhưng còn ai đâu mà thăm. Đồng đội con hy sinh cả rồi mẹ ạ.
- Ừ thì
còn thì thăm nhà thăm cửa. Mà hy sinh thì thăm mồ mả.
Ông Thuận ngồi ngó nắng suy nghĩ mông lung. Cho đến khi nắng tháng tư tràn vào đến giữa nhà thì ông quay sang nói với vợ:
- Chắc là tôi phải đi một chuyến thôi. Anh em nằm lại ở Thành cổ Quảng Trị. Mấy chục năm qua tôi chưa một lần vào thăm để thắp cho đồng đội nén nhang thơm.
- Ông đi một mình có ổn không? Tôi thì bận chuyện nhà, chăm mẹ.
- Bà yên tâm. Ngày xưa bom đạn ác liệt, lúc bị thương vẫn còn trèo đèo lội suối được. Huống hồ bây giờ xe cộ thuận tiện. Trèo lên xe ngủ vài giấc là tới thôi mà.
Nói rồi ông lại tự trách mình, thuận tiện thế sao bấy lâu nay ông không trở lại. Có lẽ ông sợ gặp lại mảnh đất từng một thời đẫm máu, sợ mình không thể đối diện nỗi đau mất đi những đồng đội thân thiết. Nhưng ký ức vẫn vẹn nguyên. Có lẽ anh em đồng đội muốn gặp lại ông và những giấc mơ như một lời nhắc nhở. Chiến tranh đã kết thúc lâu rồi. Bom đạn đã ngủ yên trong quá khứ. Nhưng vẫn còn biết bao anh em đồng đội chưa được về trong vòng tay của mẹ.
Chuyến xe Bắc- Nam khởi hành lúc năm giờ sáng. Ông mang theo chiếc ba lô cũ có bộ quần áo của người đồng đội đã ngã xuống. Trong lòng ông bỗng vang lên những câu thơ đau đáu lòng người: "Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm
" (2).
(1) Bài thơ: "Quê Hương" của Giang Nam
(2) Bài thơ: "Đò lên Thạch Hãn" của Lê Bá Dương.