07/02/2015 - 15:55

Tre, dừa, lá - với đời sống người miền tây thuở xưa

ĐBSCL xưa kia là vùng biển nông hình thành bởi sự bồi lắng của phù sa sông Mêkông và mực nước biển hạ thấp - còn gọi là hiện tượng biển lùi - xảy ra hàng ngàn năm trước. Dấu vết địa chất hãy còn lưu lại qua các ngấn nước hằn khuyết trên đá ở Hang Cá Sấu (Hà Tiên) và vài nơi khác.

Sau sự xuất hiện của các loài cây tiên phong như mắm, đước, vẹt, tràm, bần… trong thời gian dài, đất đai ĐBSCL dần ổn định. Hơn 300 năm trước, lưu dân khẩn hoang người Việt - đa phần là nông, ngư dân từ Quảng Bình đến Quảng Nam ngày nay, cùng với quan binh nhà Nguyễn, số ít tù binh, dân giang hồ tứ chiếng, những kẻ có máu phiêu lưu, những người có chí lập nghiệp, những ai bất mãn triều đình… đi về phương Nam với mong ước đổi đời, sống yên ổn trên vùng đất mới được thiên nhiên ưu đãi nhưng cũng lắm gian nan khắc nghiệt.

Thời ấy, lúa nước là cây lương thực chủ yếu được người khẩn hoang trồng trên những vùng đất thấp vừa mới dọn… Trên những vùng đất tương đối cao, thường là những vạt đất ven sông lớn, những giồng cát, những mảnh vườn, người ta trồng nhiều cây thân mộc. Có ba loại cây tiêu biểu, chủ yếu gắn bó mật thiết với cư dân miền Tây từ thời khẩn hoang đến sau này là: tre, dừa, lá (dừa nước). Theo tập quán lâu đời của người Việt, ở nông thôn, hầu như nhà nào cũng có trồng tre sau vườn, bên hè, ranh đất, dọc theo lối đi, đường làng, thôn, ấp… bởi công dụng rất đa dạng của loại cây này. Cây tre dùng để làm nhà, cừ, cọc; trong sinh hoạt dùng làm thúng, mủng, rổ, rá, bàn, ghế, giường, tủ; lá tre dùng để chữa một số bệnh. Măng tre có thể ăn được và cây tre còn dùng làm nhạc cụ...

Bên cạnh tre, cây dừa cũng được trồng phổ biến ở ĐBSCL từ lâu đời. Dừa thích nghi với nhiều vùng đất có thổ nhưỡng khác nhau (mặn, ngọt, lợ) và có rất nhiều công dụng. Nước dừa là thức uống giải khát phổ biến tại nhiều vùng nhiệt đới, có thể dùng làm dịch truyền bởi chứa đường, đạm, chất chống oxy hóa, các vitamin và khoáng chất. Phần cơm dừa được sử dụng ở dạng tươi hay sấy khô trong nhiều món ăn. Cơm dừa khô là nguyên liệu để sản xuất dầu dừa. Gáo dừa khô được dùng làm bộ phận trong một số loại nhạc cụ như đàn gáo, hoặc làm nhiều vật gia dụng, đồ thủ công mỹ nghệ, than hoạt tính. Xơ dừa được dùng làm dây thừng, chảo, thảm, bàn chải, khảm thuyền cũng như làm vật liệu lèn, chất độn trong phân bón. Vỏ và xơ dừa có thể làm nguồn nhiên liệu hay sản xuất than củi. Lá dừa làm mái che, giỏ đựng đồ và chổi. Thân dừa dùng làm đồ mỹ nghệ hoặc làm vật liệu cho một số công trình xây dựng. Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm, thuốc sát trùng để súc miệng hay chữa trị bệnh lỵ.

 Dừa nước được trồng ven các bờ kênh ở khắp ĐBSCL. Ảnh: google.com

Dừa nước là một loại cây phổ biến ven sông rạch miền Tây Nam bộ, thường mọc thành từng đám lớn, người dân hay gọi là đám lá - rất dễ trồng và có nhiều lợi ích. Phổ biến nhất là dùng lá dừa nước để lợp nhà, chòi, trại. Cọng dừa nước sau khi đã róc sạch lá, đem phơi săn cứng lại, đan bện làm vạt ngủ, kệ, bàn…

Tre, dừa và dừa nước đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân ĐBSCL xưa bởi đây là những vật liệu chính yếu để làm nhà. Quy trình xây dựng một căn nhà khang trang của thành phần trung lưu ngày xưa bắt đầu từ việc đắp nền đất cao hơn mực nước lớn hàng năm. Nện đất cho dẻ và có thể rải muối hột cho mối không làm tổ, để ít nhất là một mùa mưa. Sau đó chọn tre làm nhà. Ưu tiên số một là tre mỡ, phải để ngâm dưới bùn ít nhất 6 tháng tránh mọt. Tre mỡ thịt dày, giao lóng, cây cao to. Tre già, sau khi ngâm “tới nước” thì xài có đến 50 năm chưa hư! Tre xiêm già đốn tươi, làm ngay không mối mọt, nhưng hơi nhỏ cây. Các loại tre khác như mạnh tông, tre gai, tre tầm vông, tre lồ ồ đều có những ưu điểm riêng – tùy thích sử dụng. Ở những căn nhà như trên, tre được làm đòn tay, chẻ rui, làm nẹp, mầm, vách, khá chắc chắn.

Dừa già có thể đốn trước đó vài tháng, sau đó được cưa, đốn, đẽo, gọt phù hợp với quy cách cột, xiên, kèo. Dừa già làm nhà, nếu có cho “ăn dầu chai” (thoa, tẩm dầu) sẽ rất bền với thời gian (từ 50 năm trở lên). Lá dừa nước đốn trước chừng một tháng, róc, chằm thành miếng lợp ngang thành nhiều li (nếp) hoặc xé đôi lợp xuôi theo mái nhà. Lạc buộc lợp nhà lấy từ đọt cờ bắp (đọt cây lá non chưa nở). Rồi đến chuẩn bị dây cột đầu kèo, “con sẻ” (là thanh tre cứng bằng ngón tay cái, đút ngang giữa lỗ cột và kèo).

Ở ĐBSCL có tập quán lợp nhà vần công. Khi một gia đình nào đó dựng, lợp nhà thì những người bà con, láng giềng dù bận mấy cũng phải có mặt, hoặc nhờ người thay thế đến phụ giúp.

Gia chủ thường cúng dựng nhà bằng một con vịt trắng (vịt ta) với xôi chè. Thợ mộc đã giao nguyên (ráp thử) xác nhà vào hôm trước. Sau đó giao kỷ (vào nêm, mộng) và cùng những người đến tiếp dựng sườn nhà lên vào giờ khắc đã định trước. Chủ nhà thường bày tỏ lòng cảm ơn với những người đến vần công một tiệc rượu, lớn nhỏ tùy khả năng, sau khi dựng lợp xong ngôi nhà .

Nhà ở ĐBSCL hồi ấy được cất phổ biến theo hai kiểu: nhà trính và nhà rọi, người ta còn gọi chung là nhà kê tán, đẹp và ở khá bền lâu.

Nhà trính có cấu trúc chắc chắn và khá phức tạp với nhiều cột, kèo, xiên, xà ngang, dọc, kết nối liên hoàn. Các đình, chùa, nhà việc, nhà giàu có, xưa kia thường làm theo kiểu nầy. Nếu đúng bộ, một căn nhà trính có tới 32 cây cột lớn nhỏ. Nhà trính cứng cáp, khó bị xiêu vẹo bởi thời gian hay gió bão. Với nhà trính, người ta dễ ngăn chia các phòng trong ngôi nhà. Người ta nhận dạng nhà trính (ba căn) ở hai hàng cột cái, gồm 8 cây cột cao, to bằng nhau ở giữa nhà.

Nhà rọi đơn giản hơn, chỉ có 4 cây cột cái giữa và các cột hàng nhì, hàng ba. Có khi người ta tiết kiệm, dùng hai cây chỏi gắn trên xiên tâm để chịu kèo. Trong trường hợp này, cột, xiên tâm phải to, chắc hơn bình thường một chút. Lúc ấy cột cái chỉ còn có hai cây!

Nhà trính cải biên (nhà nhỏ) thì lại không hao cây. Bốn cây cột làm chủ hình vuông, tạo thành lòng căn. Xiên, chỏi, kèo, mầm, đòn tay kết hợp với nhau giữ vững ngôi nhà như cái lồng bàn ụp xuống. Kiểu nhà này do thiếu cột nên dễ bị xiêu!

Bên cạnh nhà kê tán, còn có nhà chôn chân là loại nhà mà toàn bộ cột được chôn dưới đất. Loại nhà này làm nhanh, không kén cây cột, nhưng mau hư vì cột hay bị đứt chân, do chôn dưới đất bị ẩm…

Thuở mới phá rừng, khai khẩn đất đai, tiền nhân ta đã xây dựng loại nhà đơn sơ này để tránh mưa nắng và trú ngụ sinh hoạt. Những căn nhà ấy thường được cất cặp theo sông rạch, hình thành những làng chòi, làng rừng nhằm mục đích cận kề, tương trợ, giúp đỡ nhau khi hữu sự giữa chốn hoang vu của đất phương Nam ngày ấy.

ĐẶNG HOÀNG THÁM

Nguồn tham khảo:

-Bảo tàng các tỉnh: Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp

-Lịch sử khẩn hoang miền nam – Sơn Nam - Nxb Trẻ 2007(tái bản)

- Non nước Việt Nam (Phạm Côn Sơn-Tổng cục du lịch xuất bản 2005).

Chia sẻ bài viết