15/11/2014 - 16:16

TÔN VINH NGƯỜI NÔNG DÂN và XÂY DỰNG BẢO TÀNG LÚA NƯỚC - TẠI SAO KHÔNG?

Tại Hội thảo “Định hướng chiến lược phát triển kinh tế tri thức đến 2030”, ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang nhấn mạnh: “Lãnh tụ và lãnh đạo Việt Nam đều xuất thân từ nông dân hoặc từ nông thôn. Các nhà khoa bảng, khoa học, trí thức, văn nghệ sĩ, giới công thương… nói chung là tinh hoa dân tộc đếu xuất thân từ nông dân”. Tại ĐBSCL, người nông dân với tinh thần quả cảm và lao động miệt mài đã trải hằng trăm năm làm nên vùng đồng bằng trù phú hôm nay. Vậy tại sao chưa từng có những ghi nhận và tôn vinh đúng mực dành cho họ?

ĐBSCL là vùng đất trẻ, chiếm 11,9% diện tích của cả nước, được hai nhánh sông Tiền, sông Hậu cùng các chi lưu, phụ lưu đem phù sa màu mỡ bồi tụ, hình thành vùng châu thổ bạt ngàn. Từ vùng đất ở thượng nguồn, cho dù là bán sơn địa thuộc khu Tứ giác Long Xuyên, hay vùng trũng Đồng Tháp Mười, dẫn đến các tỉnh “miệt dưới”, đâu đâu cũng đồng rộng sông dài, cũng la liệt bè cá, vuông tôm, cũng cây lúa, cây màu, cây ăn trái, đủ loại! Người chủ thực sự và trực tiếp canh tác không ai khác hơn là người nông dân một nắng hai sương.

Người ta cho rằng ĐBSCL được thiên nhiên ưu đãi. Nói thế không sai, nhưng chỉ đúng trọn vẹn khi nhìn thấu đáo chiến thắng của những lưu dân trong cuộc vật lộn một mất một còn với thiên nhiên. Buổi đầu xuất phát, hành trang của họ không gì khác hơn ngoài “Vai mang chiếc nóp rách, tay xách cỗ quai chèo”, đã trải trăm năm cảnh “nửa năm đi trên mặt nước, sáu tháng đạp trên đất đồng khô”, “tắm nắng lửa, ngủ mùng gió”. Họ kiên trì từng bước chinh phục thiên nhiên, đuổi các loài thú dữ, biến “ác địa” thành đất lành, bắt đất hoang đầy cỏ rác thành đồng ruộng, vườn tược. 47,2% đất ở đồng bằng bị nhiễm phèn với “hai mỏ phèn” lớn nhất Đông Nam Á nằm trọn trong vùng trũng Đồng Tháp Mười (700.000ha) và Tứ giác Long Xuyên (584.300ha). Phèn là kẻ thù số một của cây lúa, nhưng với người nông dân, trồng lúa trên đất phèn là “chuyện nhỏ” bởi sau bao phen thất bại họ đã có cách xử lý đất phèn: đào nhiều “mương phèn” thông với các kinh rạch khác để “xả phèn”; hoặc gieo sạ theo lối “ém phèn”, tức không cày sâu vì sẽ “dậy phèn”.

Trong canh tác, hơn ai hết, họ là những người biết cách trừng trị cỏ dại; dùng mưu diệt chuột, đuổi chim; “ruộng thấp thì cấy, ruộng gò thì gieo”; với thửa ruộng của mình, họ biết nên cày sâu hay cày cạn, mấy tát, có phải cày trở hay chỉ cần bừa, trục, trạc? Bằng vào những kinh nghiệm và tài xem điềm trời mà đoán năm nay mưa sớm hay muộn, nước lớn hay nhỏ… từ đó tính toán, sắp xếp thời gian để “lên lịch” sát đúng với thời vụ từ khâu đầu đến khâu cuối. Họ là những người tay lấm chân bùn, ngày ngày phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, vừa rất thông minh, năng nổ lại vừa rất cần cù, chí thú làm ăn… Ngay từ buổi đầu khai phá trong điều kiện tự túc tự cấp, mọi sự sáng tạo trong lao động sản xuất, kể cả việc chế tác hàng trăm, hàng ngàn loại nông cụ cầm tay canh tác, chính là nét văn hóa đặc sắc của người nông dân vùng ĐBSCL.

Không chỉ ở vùng Tứ giác Long Xuyên nhân dân lập miếu Thần Nông, để ngày ngày, hoặc chí ít đến ngày 17 tháng 3 âm lịch hằng năm tựu hội bày biện lễ vật tuy đơn mọn nhưng cũng thể hiện cao nhất tấm lòng của mình đối với trời đất, tổ tiên và… cây lúa. Có thể nói, ở hầu khắp vùng quê Nam bộ đều có những ngôi miếu như thế, tuy đơn sơ nhưng lại rất thân thương, thành kính. Với họ, “Đó là đạo. Làm ruộng là đạo, giữ đất là đạo. Khuyến nông tức là cách giữ đạo làm nông” như nhà văn Sơn Nam từng nói.

Để thể hiện đúng mức sự quan tâm, trân trọng những con người chân chất đã bằng sức lao động và sự tri điền, không chỉ góp phần đáng kể nuôi sống mấy chục triệu người dân Việt, đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, mà còn đem xuất khẩu, song song với những biện pháp đột phá nhằm cải thiện đời sống người nông dân, các giới chức hữu quan cũng nên nghĩ đến việc tôn vinh họ. Tại sao không dựng tượng đài người nông dân trên vùng đất chín rồng huyền thoại? Tại sao không có bảo tàng lúa nước tại đây? Câu chuyện cây lúa và hành trình của người nông dân khuất phục thiên nhiên từ thuở khẩn hoang đến khi hình thành ĐBSCL màu mỡ ngày nay đủ để có một bảo tàng, một tượng đài độc nhất vô nhị!

NGUYỄN HỮU HIỆP

Chia sẻ bài viết