08/08/2015 - 15:45

Thần đèn

Truyện ngắn Trần Quốc Cưỡng

Sát bên con đường đất từ xóm Cồn băng qua đường sắt là cái "bốt gác" bằng tranh tre, nứa lá như cột nấm khổng lồ. "Bốt trưởng" là ông lão mặt chữ điền, dáng cao lênh khênh, bước đi đĩnh đạc. Ông tên là Nhân, thứ Bốn, họ Nguyễn. Mọi người quen gọi ông là "Bốn Bốt". Việc ông dựng cái bốt để gác đường tàu tránh tai nạn là đề tài được mọi người đem ra tán gẫu. Kẻ thì chê ông bị hâm, thừa cơm, rỗi việc, vác tù và hàng tổng… Người thì khen ông giàu lòng nhân ái. Ông bỏ ngoài tai tất cả.

Cho đến một ngày người ta nhẩm tính mấy năm rồi xóm Cồn không xảy ra vụ tai nạn đường sắt nào, họ mới nhìn ông bằng ánh mắt cảm mến. Trong số người ngưỡng mộ ông có cu Tý, nhà ở gần đường tàu. Cu Tý hỏi ông Bốn Bốt: "Ông ơi! Mỗi lần tàu chạy qua đây, ông giơ chiếc đèn vuông lên để làm chi?". Bốn Bốt cười hì hì: "Ông truyền tín hiệu an toàn cho tàu chạy đó nhỏ". Cu Tý ngơ ngác: "Sao ông rành vậy?". Bốn Bốt ngồi đong đưa trên võng, giọng hứng khởi: "Ông một thời thâm niên công vụ tuần đường sắt". Cu Tý tròn mắt: "Ông không sợ ma?". Bốn Bốt cười khần khật: "Ma là bạn đường của ta, việc gì phải sợ? Trên đường đi tuần, ông còn gặp vô số rắn, rít, cóc, nhái, chó mèo và bóng đêm đen kịt ghê rợn". Cu Tý co đầu rụt cổ: "Ông gan dạ quá trời! Ban đêm, từ đây về nhà, cháu đã sợ ma run bắn lên rồi!". Bốn Bốt như nói với một người bạn đồng hành: "Bão. Những trận bão. Càng gió bão, ta càng phải tuần đường. Ông xách đèn vuông chống chọi với cuồng phong, trời dầm dề mưa buốt giá. Dọc đường cây cối ngả nghiêng, tôn, ván bị gió thốc bay vắt ngang đường ray. Ông thu dọn, tay chân mỏi nhừ. Thời của ông tuần đường chỉ lẻ loi một mình một bóng, không áo phản quang, không pháo hiệu. Vậy mà ông đã đi qua, đi lại các cung đường trên 30 năm có dư". Bốn Bốt chợt cất lên tiếng hát giọng khàn đục: "Anh lái tàu ơi! Anh hãy yên lòng, con đường này luôn có tôi. Con đường này luôn có tôi đều bước trọn đời chăm lo…".

***

"Đó là một đêm mùa hè nghiệt ngã. Trời đứng gió. Cái nóng bức bối. Gần hai giờ tay cầm cờ lê, tay xách đèn vuông đi lạo xạo trên đường sắt, đôi chân rã rời, lại còn phải căng mắt nhìn từng con ốc trên đường ray xem có làm sao không, hơi thở đã nặng dần, mồ hôi lấm tấm trên trán, ông chợt thấy láng cháng phía trước có hai người nằm dài trên đường ray. Ông nhổm da gà, khựng lại vài giây rồi lấy lại tư thế bước tới, nghe mùi rượu đặc quánh. Hai gã đàn ông nằm gối đầu trên thanh tà vẹt ngủ khì. Phía sau, đoàn tàu hỏa đang rầm rập lao tới. Đèn từ đầu máy quét sáng, luồng sáng cực mạnh". Cu Tý bật dậy, mắt long lanh, mũi hếch, giọng gấp gáp: "Tàu có cán… không ông???". Bốn Bốt cằm bạnh ra, nhồi thuốc lá vào cái tẩu, mấy ngón tay thô ráp lấm bấm cục thuốc rê, mồi lửa. Ánh lửa hắt một bên khiến gò má lõm đi, gương mặt ông già trở nên méo mó trông khó coi. Sau một hồi lập bập cho thuốc bén lửa, Bốn Bốt rít một hơi dài, phả khói. Làn khói lam lơ lửng bay lên, nhìn cu Tý, cười khù khụ: "Cái thằng nôn nóng như uống nước dừa giữa ngày hè. Khi ấy, ông thả cờ lê, đặt vội cái đèn xuống đường ray, chộp hai bàn chân của người đàn ông gần nhất kéo ào xuống lề đường, rồi lao lên kéo tiếp người đàn ông thứ hai ra khỏi đường ray. Tiếng còi tàu cất lên vừa lúc ta xách đèn nhảy sang một bên. Đoàn tàu vụt qua!". Cu Tý thở phào. Bốn Bốt cười hồn nhiên: "Nhỏ ạ! Sau cái đận ấy ông được thưởng". Cu Tý nhao nhao: "Ông được thưởng? Ai thưởng cho ông? Mà thưởng cái gì vậy?". Bốn Bốt như ngấu nghiến kỷ niệm đẹp trong đời: "Hai gã đàn ông được ông cứu nạn trong đêm hôm ấy chứ ai. Họ thức cả đêm chờ ông đi qua để tặng cục xôi gà và chai nước trà Bắc Thái. Khi ấy, ông mới biết họ uống rượu thấy nóng nảy trong người rủ nhau lên đường ray nằm nói chuyện cho mát rồi ngủ quên. Ban đêm đường sắt mát lắm nhỏ".

Bốn Bốt có cả pho truyện ly kỳ kể hoài không hết. Mỗi câu chuyện gây cho cu Tý nỗi sợ hãi xen lẫn thích thú. "Có một lần ở cây số 786 xảy ra vụ tai nạn thương tâm. Đôi vợ chồng trẻ chạy xe máy băng qua đường ray bị nạn chết. Đó cũng là cung đường ông bảo vệ. Tai nạn xảy ra buổi sáng. Buổi tối ông đi tuần. Đêm mịt mùng, lặng ngắt như tờ, đi qua nơi xảy ra tai nạn, hình ảnh của người chết cứ chờn vờn trước mắt khiến đôi chân ông muốn ngã khụy. Ấy thế, vẫn phải đi qua". Cu Tý buột miệng: "Có cho cháu núi kẹo, cháu cũng không dám bén mảng đến chỗ đó". Bốn Bốt tiếp tục kể giọng đượm màu hoài niệm: "Hồi còn đi tuần ở km số 671+200, mỗi lần qua đoạn này ông phải bò dài trên mặt đất mới khỏi bị gió thốc văng xuống biển". Cu Tý đồng cảm: "Sao ông không tìm một việc làm nào đó đỡ nhọc nhằn?". Bốn Bốt cười: "Trời sanh ra mỗi người phải có một nghề nhỏ ạ. Ông gắn bó với việc tuần đường, làm "thần đèn" chỉ lối cho hàng ngàn, hàng vạn chuyến tàu an toàn. Lòng thấy vui nhỏ à!". Cu Tý chả hiểu thế nào là niềm vui vì mang lại an toàn cho mọi người. Nó chỉ hiểu đại loại Bốn Bốt làm cái việc mà người khác không dám làm. Như vậy là oách nhất rồi!

***

Xóm Cồn ngày xưa là động cát mênh mông như sa mạc hoang tàn. Ngày hè, bọn trẻ chăn bò không dám đi chân trần trên cát. Cát bỏng như đem rang trong chảo lửa. Bọn trẻ mục đồng không quen mang dép. Thế là những chú bò mộng trở thành những con lạc đà đưa lũ trẻ qua động cát, đến cánh đồng bao la xa tít tận chân trời. Ngày hòa bình lập lại, người dân trước đó đi tản cư khắp nơi trở về bản quán, động cát dần dần hình thành xóm làng và cái tên xóm Cồn ra đời, tên hành chính là "thôn Lạc Nghiệp". Từ xóm Cồn muốn sang các khu dân cư khác, lên quốc lộ 1 phải trải qua đường sắt Bắc – Nam. Chính con dốc thoai thoải từ xóm Cồn xuôi về đường sắt không có gác chắn đã gây ra biết bao tai họa cho những người tham gia giao thông. Ngày ấy, ông Bốn mới ướm lời với gia đình dựng cái bốt gác đường tàu, đã bị vợ phản đối: "Mấy mươi năm sống với nhau là chừng ấy thời gian ông đi tuần đường. Đêm đêm tôi vò võ một mình. Giờ ông lại bày ra cái chuyện gác đường bao đồng thiên hạ". Có người phụ nữ nào không xót xa khi chồng mình giữa đêm đen, mưa gió tả tơi, một thân, một mình âm thầm chịu cái lạnh thấu xương, dướn người trên con đường dài dằng dặc? Bốn Bốt không nản lòng, cười hề hà: "Tôi biết mình vì tôi mà chịu nhiều thiệt thòi. Kiếp này tôi nợ mình. Xin mình hãy để cho tôi góp một chút công sức cho sự bình an của mọi người. Mình thấy đấy, chưa tròn một năm ở xóm Cồn đã có tới 5 vụ chết người vì tai nạn đường sắt. Vả lại tôi làm việc này là để lại cái đức cho con cháu". Vợ Bốn Bốt có phần xiêu lòng: "Ông già rồi, hãy lo an dưỡng sức khỏe. Rủi có bề nào tôi biết phải làm sao?". Bốn Bốt cười: "Tôi quanh quẩn trong nhà cũng buồn. Dựng cái bốt có chỗ đánh cờ với các bạn già thêm vui chớ sao!".

Nói thì nói vậy, chứ ngày dựng cái bốt gác đường tàu, vợ Bốn Bốt hăng hái chuyển tranh tre, nứa lá. Thằng con út của Bốn Bốt đào lỗ chôn trụ cây xong đứng dạng chân, nhe răng cười toe toét: "Ba ra riêng chẳng có gì ngoài tranh tre, nứa lá!". Bốn Bốt đưa tay quệt mồ hôi ròng ròng trên má: "Cái thằng chuyện chi cũng giỡn được. Mẹ giận ba chưa nguôi đó nghe, đừng có đổ dầu vào lửa!". Cậu con trai cười: "Mẹ mà giận được ba mới là chuyện lạ. Con chưa thấy ai cưng chìu ba như mẹ!". Bốn Bốt ánh mắt ngời ngời hạnh phúc, quên cả mệt nhọc.

***

Ngày Bốn Bốt dựng bốt gác không thấy ai, khi tháo gỡ bốt gác lại có chủ tịch xã dẫn mấy dân quân đến giúp sức. Ông chủ tịch còn ôm theo cái bằng khen, nói cười rổn rảng: "Trước khi tháo bốt gác, cháu mời bác nhận bằng khen tại đây để chụp ảnh cái bốt làm kỷ niệm. Cháu cảm ơn bác thời gian qua đã giúp cho mọi người xóm Cồn được bình an! Sáng mai, ngành đường sắt sẽ làm gác chắn, cử công nhân túc trực tại đây. Bác hãy yên tâm về nhà vui cảnh điền viên cùng bác gái". Đôi vai gầy Bốn Bốt rung lên. Lần đầu tiên người ta thấy cảnh khóc lạ đời: nước mắt lăn trên má Bốn Bốt, mà miệng mỉm cười sung sướng.

Chia sẻ bài viết