Với kế hoạch của châu Âu đổ hàng trăm tỉ USD cho lĩnh vực quốc phòng nhằm nâng cao tính tự chủ, một số nhà quan sát thị trường cho rằng nhiều công ty Mỹ sẽ là bên hưởng lợi trước sự bùng nổ an ninh sắp tới.
.webp)
Máy bay chiến đấu đa năng F-35 được lắp ráp tại cơ sở của Lockheed Martin ở Texas, Mỹ. Ảnh: f35.com
Tuần rồi, Quốc hội Đức tiến hành cuộc bỏ phiếu lịch sử về cải cách nợ và mở đường cho tăng chi tiêu quốc phòng. Trước đó ở Anh, Thủ tướng Keir Starmer tuyên bố nước này sẽ “đấu tranh vì hòa bình châu Âu” bằng cách tăng chi tiêu quốc phòng lên 2,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2027 và tham vọng đạt 3%. Đây là mức tăng lớn nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và sớm hơn 3 năm so với kế hoạch.
Trong bản cập nhật chính thức về chiến lược tái vũ trang châu Âu (ReArm Europe), Liên minh châu Âu (EU) cam kết huy động 867 tỉ USD vì mục tiêu an ninh của khối. Ngoài kêu gọi các nước thành viên hợp tác và chi tiêu hiệu quả, văn kiện này còn nhấn mạnh nhiệm vụ giữ kinh phí hoạt động trong phạm vi biên giới châu Âu bằng cách ưu tiên nhà thầu quốc phòng địa phương. Ngay cả đồng minh Mỹ cũng sẽ bị loại khỏi quy trình mua sắm, trừ khi Washington ký các thỏa thuận Đối tác An ninh và Quốc phòng với Brussels.
Câu hỏi về năng lực và chuỗi cung ứng
Đối với cam kết của EU tập trung vốn cho các nguồn lực địa phương, giới quan sát cho biết duy trì phạm vi mua sắm chỉ ở khu vực sẽ đòi hỏi sự thay đổi đáng kể. Nhu cầu này trở nên khó khăn hơn khi xét tới ưu thế của nhiều công ty quốc phòng lớn của Mỹ trong chuỗi cung ứng quân sự châu Âu.
Chẳng hạn như Lockheed Martin, tập đoàn có trụ sở tại bang Maryland là nhà cung cấp các thiết bị quân sự thiết yếu cho châu Âu trong hơn 70 năm qua. Những năm gần đây, công ty hợp tác với nhà sản xuất ô tô và vũ khí Đức Rheinmetall cung cấp cho Berlin hệ thống pháo phản lực tùy chỉnh, bắt đầu sản xuất hệ thống pháo gắn trên xe tải HOMAR-A cho Ba Lan và bán tên lửa không đối đất tầm xa cho Hà Lan. “Gã khổng lồ” khác trong ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ, Northrop Grumman, thì chuyên cung cấp năng lượng cho các hệ thống chỉ huy và kiểm soát cốt lõi mà Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) sử dụng trong 25 năm qua. Đầu năm nay, tập đoàn Raytheon của RTX có trụ sở tại bang Virginia giành được hợp đồng trị giá 529 triệu USD để bổ sung hệ thống phòng không Patriot của Hà Lan và hợp đồng khác cung cấp hệ thống phòng không cho Romania trị giá 946 triệu USD.
Với những ví dụ trên, Giáo sư Michael Witt cho rằng sẽ rất khó để tách biệt quốc phòng châu Âu với các công ty Mỹ trong ngắn hạn, nhất là khi lục địa này quan tâm tới vũ khí hạt nhân nhằm thay thế chiếc ô bảo vệ của Washington. Đơn cử như chương trình răn đe hạt nhân Trident trị giá hàng tỉ USD của Anh, tổ chức nghiên cứu Chatham House cho biết không chỉ có tên lửa do Lockheed Martin chế tạo mà lực lượng này còn phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ về mặt bảo trì.
Ngoài năng lực, xét tới quy mô ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu cùng bản chất chuyên môn hóa cao, nhu cầu duy trì thiết bị quân sự tuân thủ các tiêu chuẩn của NATO và khả năng tương tác với các hệ thống của Mỹ, chiến lược gia Thierry Wizman cho rằng châu Âu có thể không đủ khả năng ngăn cản ngân sách an ninh mới đến tay các công ty Mỹ. Ngay cả khi vấn đề về năng lực và chuỗi cung ứng được giải quyết, các công ty Mỹ vẫn có thể áp dụng chiến lược thu mua hoặc chuyển từ các nền tảng lớn sang các đối tác nhỏ, linh hoạt hơn để tránh bị cắt đứt nguồn vốn đang phát triển ở châu Âu.
MAI QUYÊN (Theo CNBC, AP)