Truyện ngắn: LINH AN
Nhiều khi, ông thấy rõ rành trái đất tròn và sự quay vòng của nó tạo ra một sức hút mãnh liệt giữa người với người. Những ký ức trải dài theo năm tháng, đến một ngày ắt sẽ lên xanh và cho hoa cho trái. Ký ức tựa như những sợi khói đồng vẫn mãi bảng lảng, dù tóc người ngày một bạc đi nhiều. Khi ấy cũng là lúc ông hay nhớ lại những ký ức vụn vặt năm xưa, mà quờ đụng hình ảnh nào cũng thấy lòng dậy lên một nỗi niềm đau đáu. Vòng quay cuộc sống đã cuốn nó đi, không cho cơ hội hiển hiện lại bên ngoài đời thực, nên ông đã để trôi qua.
Tuổi già làm ông hay nghĩ nhiều về những điều mình chưa làm được. Sức khỏe làm người ta lo về quỹ thời gian còn lại của đời mình, mà bao mảnh ký ức mong manh thì vẫn còn nguyên đó. Ông quyết định phải làm một cuộc trở về, để nhặt lại những điều mình gieo hồi còn tuổi trẻ. Hoặc ít nhất cũng có thể vun bồi một - hai cây xanh nào đó ven rừng, mà ông đã ngẫu hứng trồng hồi đơn vị dừng chân.
Xế chiều, ông lục mấy vỉ thuốc huyết áp, lọ thuốc chống tai biến cho vào một cái túi to, thêm mấy bộ quần áo, xếp vô ba lô để ở đầu giường. Vợ ông phát hiện, gặng hỏi:
- Ông định đi đâu sao, sao vô đồ đạc chi nhiều vậy?
- Ờ, tôi đi về thăm biên giới vài hôm...
Nghe vậy gương mặt vợ ông trĩu nặng bao điều. Từ hồi ông xỉu đột ngột ngoài bờ vườn, bà đã không cho ông rời đâu xa nhà quá trăm mét. Bà biết những miểng đạn chỉ nằm im trong người ông một cách tạm bợ vậy thôi, nó sẽ quậy quọ khi thời tiết hoặc sức người thay đổi. Những đợt đi xa như vầy làm bà sợ.
- Hay để tôi kêu mấy đứa nghỉ làm vài bữa đi cùng ông?
Ông nhìn hai đứa cháu sinh năm một đang chơi trong nôi, ông biết ba mẹ chúng trăm công nghìn việc. Bà cũng phải coi sóc hai đứa cháu suốt ngày. Những việc riêng của mình thì không nên để vợ con thêm vướng bận. Nghĩ vậy, ông an ủi bà:
- Thôi bà đừng có lo, năm nay tôi còn khỏe, tôi tự đi được. Tôi sẽ gọi điện về cho bà hay mỗi ngày. Tôi còn nhiều nỗi lòng nặng trĩu, tôi đi đợt này thôi, bà đừng lo quá.
Bà sống với ông mấy mươi năm, nhưng sao bà vẫn không thấy được nỗi lòng nặng trĩu trong ông là những điều gì. Bà gặng hỏi mãi nhưng ông nói cũng không có gì đâu, chỉ là nỗi nhớ đất đai chiến trường xưa. Ðiều đó làm bà lo âu hơn.
Chuyến đi của ông bị dời lại, bởi vợ ông sốt suốt đêm và những đứa cháu cần có người chăm sóc. Gần cả tháng sau bà đã khỏe hẳn rồi, câu chuyện về chiến trường xưa của ông cũng đã chìm lâu, nhưng sao bà vẫn đau đáu trong lòng. Hễ không thấy dáng ông ở ngoài cửa là bà lại gọi tìm. Ông biết dẫu cái ba lô ông đã cất vào tủ rồi, nhưng bà vẫn không sao cất được nỗi lo.
Ông mở ba lô lấy đồ đạc đi cất, cái ba lô xẹp lép phía tủ làm bà và những đứa con yên tâm hơn. Nhưng điều đó làm ông buồn khi mỗi chiều xé thêm tờ lịch, thấy con số cứ trôi đi không ngừng, mà tuổi mình thì dày thêm không dứt. Ông nghĩ rằng nếu không đi ngay lúc này, e là không còn kịp nữa.
Ông lên một kế hoạch tác chiến mới, và cười thầm: "Tư duy bày binh bố trận của mình vẫn còn ngon lắm". Ông không mang theo bất cứ thứ gì ngoài một ít tiền lương hưu. Nửa đêm khi cả nhà đã ngủ, và ý nghĩ ông về chiến trường xưa trong mọi người cũng đã ngủ, ông đi.
Ông đón chiếc xe ôm đã được dặn dò trước đó, ra bến xe. Xe đò đưa ông theo con đường năm nào, về chiến trường xưa cách nhà mấy trăm cây số. Con đường lớn đẹp hơn xưa, và nhiều nơi đã thay đổi. Những năm công tác sau khi kết thúc chiến tranh ông cũng nhiều lần đi đi về về trên con đường này, nhưng sao lần này, lòng ông nôn nao lạ. Chuyến trở về mà như một chuyến đi mới, mọi thứ đều gợi nhắc dù có sự đổi thay.
Qua hai chuyến xe, ông cũng tới thị xã vùng biên. Trời gần chiều, xe thả ông xuống một nơi tấp nập người qua kẻ lại. Cái bảng tên thị xã cao to phía bến xe làm ông yên dạ phần nào: Mình đã đến nơi! Ông mừng thầm, vác ba lô vào một góc nhiều cây cối, ngồi thở phào và sau đó suy nghĩ bao điều.
Giờ này chắc tụi nhỏ cồn cào lên dữ rồi, gọi về thì nhiều khi mấy đứa khóc lóc làm mình mủi lòng, mà không gọi thì cũng tội cho vợ ông lo lắng mất ăn mất ngủ. Ðêm qua khi giật mình không thấy ông đâu, chắc bà đã thức ròng đến sáng. Nghĩ vậy, ông vào tiệm cà phê, nhờ ông chủ quán gọi dùm cho số điện thoại nhà. Ðứa con lên máy: "Sao ba đi mà không nói lời nào, để mẹ lo quá chừng". "Nhưng mọi thứ ổn hết rồi đúng không, vậy thôi đừng lo, vài bữa ba về". Nói xong ông cúp máy. Lòng đã yên một phần, phần còn lại là làm sao tìm cho được nơi ông muốn đến.
Thị xã bây giờ khác xa quá, ông đứng tần ngần chỗ này cũng lâu mà vẫn không sao nhớ được. Mặc dù năm xưa đơn vị cũng đóng ở đây hơn cả tháng trời, ông khi ấy là anh lính trẻ, cùng với mấy đồng đội đi rảo khắp thị xã, mà tưởng chừng đi quanh cái bàn tay mình. Hồi ấy trong thị xã có cái đìa nước, cứ chiều chiều ông và đồng đội ra đó thả mồi câu cá, chốc lát thì gom được cả thau. Cá lớn thì về nấu cháo, cá nhỏ nhỏ thì cho bà con gần đó, có khi siêng thì ông và anh nuôi xẻ thịt ướp muối làm khô. Mấy đợt giặc pháo đường chi viện, cũng có mớ cá khô ăn qua ngày.
Nghĩ vậy, ông dụi điếu thuốc, kêu một chú xe ôm hỏi: "Cái đìa nước năm xưa bây giờ nằm ở đâu, chú em chở tôi đến đó". Nhưng cái đìa ấy đã bị lấp rồi. Ông không buồn, cũng không vui, ông nói thôi cứ ghé chỗ đó hỏi thăm xem sao. Xe đến nơi, gặp một cụ già đứng tần ngần trước ngõ, ghé lại ông hỏi thăm về người quen, thì cụ già bảo, sau đợt bộ đội đóng quân, chiến tranh ngày càng ác liệt. Pháo giặc hay bắn loạn sang phía này, có đợt pháo trúng nhà dân. Sau đợt đó, bà con tản cư đi gần hết xóm. Mấy năm sau mới có ít hộ trở về. Những hộ còn lại, số đi tản cư rồi bám rễ ở nơi xa, số mất tích trong những đợt chạy loạn. Nghe đến đoạn này, ông chợt thấy xốn xang, cái năm đất nước yên bình mà ông trở về, thị xã đã hoang tàn, mà ông khi ấy thì không có thời gian để ở lại tìm nhà má Sáu. Chỉ kịp ngó những ô cửa, nhìn theo những hàng cây cụt đọt, những người ở nơi xa tản cư về đang thu dọn cất lại nhà cửa dọc con đường. Và khi ấy ông cũng cố mấy vẫn không nhìn ra ai là những người thân quen để gọi tên, để nhắn gửi đôi điều.
Nghĩ đến đó, ông chợt nhớ một chi tiết quan trọng. Hồi năm nẵm má Sáu thường gánh khoai luộc ngang qua đây bán và trên mặt má có một cái bớt đỏ. Ðến nay chắc má cũng tám chín mươi tuổi rồi. Với thông tin mong manh đó, ông dùng mấy ngày trời dọ hỏi nhiều nơi quanh thị xã, mới đổi lại được một chút thông tin về bà. Người ta chỉ con đường đến nhà bà quanh co, cách đó năm sáu mươi cây số. Bà theo con về đó ở cũng lâu rồi, không biết bà còn hay mất. Ông nói với chú xe ôm thì cứ đi tìm, dù sao cũng phải đến nơi đến chốn.
Xe ôm đưa ông đến một ngôi nhà nằm ven con sông, trên một mảnh cù lao xanh mát. Thấy võng đưa có một bà cụ, có cái bớt đỏ bên mặt đang ngồi ngó xa xăm ra cửa, ông mừng trong bụng. Vào nhà hỏi thì đúng là bà cụ năm xưa rồi, nhưng con cháu nói, tuổi già đã làm cho mắt bà mờ và tai không nghe rõ nữa. Ông nhìn bà, phía tay có một vết sẹo dài mà ông biết đó là sẹo của đạn bay. Ông rưng rưng cầm tay bà mà nói:
- Má ơi, con là thằng Tịnh năm nào đóng quân ở núi Ðất, má gánh khoai ngang, con hỏi mua cả thúng khoai của má cho anh em trong đơn vị ăn đỡ, chờ lương thực đang bị chia cắt không lên kịp. Con hẹn má sáng hôm sau, đơn vị chi, con sẽ trả tiền, con biết thúng khoai là cả một tài sản lớn của má, là bữa cơm của gia đình, là tiền thuốc thang cho mấy em. Nhưng đơn vị được lệnh hành quân cấp tốc trong đêm đó, rồi mấy mươi năm qua, con vẫn nợ má một món nợ đến nay con mới đến để trả, mà làm sao trả cho đủ má ơi!
Ông già tuổi luống bảy mươi, cầm tay bà cụ chín mươi nói rành rọt từng lời. Bà nghe tiếng được tiếng không, rồi khẽ vỗ lên trán ông: "Già rồi mà còn khóc, có nín đi thôi không, con!".
Không biết bà cụ có nhớ câu chuyện năm xưa hay không, nhưng câu trả lời của bà làm cho người mắc nợ cảm thấy lòng mình ấm lại. Ông thấy ký ức mình nở hoa, sau một mùa ấp ủ trong lòng.