Truyện ngắn của THƯỢNG DỸ
Buổi chiều, sau giờ tan học, cô hiệu trưởng cho mời thầy Nam về văn phòng, trao cho ông cái “đơn xin chuyển lớp”, nói:
- Về nguyên tắc, ai mà người ta giải quyết cho học sinh chuyển lớp theo yêu cầu. Vụ này em cũng thấy hơi lạ. Sao cứ đòi chuyển sang lớp 4A? Đâu thầy cứ thử về tìm hiểu em học sinh này xem sao. Nghe nói bà này dạy ngoài trường Đại học, chồng làm gì to lắm trên thành phố. Đối phó với mấy ông bà này nhiều khi cũng mệt mỏi...
Thầy Nam lẳng lặng hớp ngụm nước, lướt mắt đọc qua cái đơn được đánh máy vi tính trên tờ giấy A4 trắng tinh, thở dài, cám ơn cô hiệu trưởng rồi lui ra...
Sân trường đã vắng ngắt. Thầy Nam còn ngồi một mình ở cái băng đá dưới gốc cây bàng. Lác đác vài chiếc lá vàng rơi vãi, quanh quất. Ông lại đọc tờ giấy trên tay lần nữa, không biết đã là lần thứ mấy. Chợt hơi thở gấp, mồ hôi vả ra, chân tay bủn rủn tưởng chừng không gượng đứng dậy nổi. “Ba cái anh cao huyết áp, hạ can-xi và thiếu máu cơ tim lại đồng hè tìm đến quấy quá mình nữa đây, chớ gì?”. Ông nhủ thầm, lần trong túi áo tìm mấy viên thuốc nhỏ xíu, nuốt vội rồi ngả người ra lưng ghế đá. Khổ thân! “Quan chưa tha mà ma đã muốn bắt” cũng nên! Mà ông cũng sáu mươi lăm rồi, ức gì? Sáu mươi chỉ là tuổi giấy tờ, tuổi “trốn quân dịch” từ cái thời chính quyền Sài Gòn tổng động viên hồi trước thôi. Sau giải phóng, tưởng cũng chỉ được dạy một thời gian thôi nên ông cũng chẳng màng nghĩ đến cái việc cải sửa tuổi lại... Mau thật, cách đó mà đã ba mươi mấy năm rồi! Đầu năm học này, tưởng đâu ông được miễn huấn, làm giáo viên dự trữ, chờ tới ngày nhận quyết định nghỉ hưu đúng tuổi khoảng trước Tết. Trường thiếu giáo viên. Trên cho về bốn người, vậy là đủ. Ai ngờ trong số giáo viên về lại phải nhận về một cái bụng bầu, vừa trình quyết định, vừa gởi luôn cái đơn xin nghỉ hộ sản. Cả trường cười ngất. Vậy là ông phải xuống lớp tiếp tục “cày”! Kệ, ba bốn chục năm còn chẳng ăn thua, ba bốn tháng thì có nhằm nhò gì! Ông nói vui với cánh trẻ: “Thân già không nệ dao phay mà, các bạn ơi!”.
Lời lẽ trong cái đơn rõ ràng là nhắm vào ông. Người ta lấy ông làm cái “lý do” để xin chuyển con người ta sang lớp khác. “Tình hình học tập của cháu bị sa sút... gần đây cháu thường có những biểu hiện chán nản, bi quan, sợ phải đến trường... Có phải cháu ít được quan tâm, lớp chưa thân thiện hoặc do giáo viên chủ nhiệm chưa làm hết trách nhiệm của mình... Tôi đã có hơn 10 năm đứng trên bục giảng, tôi biết...”. Đối với một trái tim dễ tổn thương như ông, tờ giấy ông cầm trên tay như bản cáo trạng mà người đang thổn thức đứng trước vành móng ngựa kia đâu ai khác hơn là chính ông. Ông tưởng tượng hàng nghìn con mắt lá đang đông cựa trên vòm cây quanh đây như hàng nghìn con mắt của đồng nghiệp, của người thân, của những thế hệ học trò và ai nữa kia... đang chăm chăm nhìn vào ông xét nét, nghi hoặc hay độ lượng, bao dung. Chính xác hơn, ông còn đau đớn nhói tim khi nghĩ rằng mình như người lính già vừa lãnh một viên đạn mồ côi đúng vào lúc chiến trường sắp yên tĩnh trở lại. Hôm nay là thứ sáu cuối tuần. Đầu tuần tới là cô giáo kia sẽ trở lại công tác, coi như sự nghiệp của ông đã được viên mãn. Tiếc rằng đây không phải là một cuộc phán xử công bằng vì ông không còn cơ hội để tự bào chữa cho mình nữa rồi.
***
Hạnh ghé trường xin được đón con về sớm để đi đón ba nó. Anh Bình, chồng chị chiều nay sẽ về tới sau gần 2 năm đi tu nghiệp ở nước ngoài. Thằng bé Bi vừa qua thôi nôi là anh đi học suốt. Hai đứa cưới nhau gần 10 năm mà thời gian sống gần nhau tính ra chưa được vài ba năm. Anh Bình đã tính, nếu lần này về mà vẫn được giữ lại công tác trên thành phố Hồ Chí Minh thì sẽ sắp xếp cho chị về trên ấy luôn để có điều kiện chăm sóc cho thằng bé Bi đầy đủ hơn. Nói vậy thôi chứ một mình chị cũng dư sức lo cho thằng bé. Nếu có điều gì đó làm chị hoàn toàn chưa hài lòng thì chắc cũng chỉ là cái kế hoạch chuyển lớp cho con gần như đã bị phá sản. Bà Minh, vợ của sếp chị cứ hay chủ quan, tưởng cô giáo chủ nhiệm lớp thằng con bả “móc” với bà hiệu trưởng được, bày cho chị viết cái đơn xin chuyển lớp với lý do hoàn toàn bịa đặt nhưng nghe thấy cũng lô-gich lắm. Ai dè lên đến bà hiệu trưởng thì bà này viện đủ thứ nguyên tắc để rồi tế nhị: “Xin chị cảm phiền và mong được thường xuyên tiếp chị ở trường để cùng phối hợp...”. Dễ quê thật! Đã không chịu nhận phong bì lại còn “lên lớp” mình nữa chớ! Ý bả là mình chưa bao giờ đặt chân tới trường từ hồi thằng Bi nhà mình xin chuyển về đây năm lớp Ba chớ gì! Thì đã làm sao đâu nè! Tiền nong các thứ mình đóng kịp thời. Họp hành gì thì đã có thằng Bảy xe ôm tới dự và ký tên đầy đủ. Khối người cũng vậy chớ mình mình à! Còn nguyên tắc hả? Chờ anh Bình về đây rồi xem. Nguyên tắc nào mạnh hơn bức thư tay hay một cú điện thoại cho biết. Bà Minh nói cô giáo gì đó tình cảm và biết điều lắm. Thằng con bả sức học cũng cỡ thằng Bi nhà mình thôi. Nhờ cổ “quan tâm đặc biệt” mà thằng nhỏ được lăng xê hết cỡ. Chả bù với ông thầy thằng Bi, nghe nói cứ khó đăm đăm ấy! Đứa nào cũng như đứa nào, thằng Bi nhà mình chẳng được “phát huy” gì hết, chán thật! Bi mà được chuyển lớp thì nó sẽ được đi học với thằng nhỏ kia, có tài xế đưa rước đàng hoàng. Tài xế nhà người ta dù sao cũng sáng sủa hơn thằng Bảy xe ôm, nhờ anh ta họp hành các thứ luôn thể có khi còn được việc.
Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại. Người ta không chịu giải quyết cho con mình được chuyển lớp, nhưng họ cũng đã chuyển công tác thầy giáo của thằng Bi rồi còn gì. Như vậy là họ cũng có nể mình đấy chớ! Nghĩ lại cũng thấy tồi tội cho ông thầy giáo đó thế nào! Hạnh coi đó dù sao cũng là một thắng lợi, chí ít về mặt “tinh thần” để làm giảm nhẹ nỗi bứt rứt trong lòng mấy hôm nay.
***
Thằng Bi liếng thoắng ôm cặp chạy vào nhà. Bỗng dưng nó ngơ ngác đứng sửng lại. Nó không sà vào lòng ông nội như mọi khi mà lại e dè vòng tay trước ông khách lạ: “Thưa thầy con đi học mới về! Thưa nội con đi học mới về!”.
- Giỏi!
- Ờ, giỏi lắm con!
- Thầy ơi, sao thầy không dạy lớp con nữa, thầy! Thầy còn chưa kể cho tụi con nghe chuyện về anh Nguyễn Ngọc Ký với đôi chân kỳ diệu nữa mà, thầy còn...
- Thằng Bi không được nhõng nhẽo, để ông với thầy nói chuyện. Lại đây với ông, con! Cha, vậy là tía con mầy học cùng thầy rồi nghen!
- Đâu có, tôi chỉ dạy thay cô kia mới có được mấy ngày thôi.
- Thầy nói vậy, đâu phải! Nhứt tự vi sư, bán tự vi sư chớ thầy!
Nãy giờ đứng ngoài, Hạnh đã nghe và mơ hồ nghĩ tới một tình huống hết sức khó xử cho mình. Khách của ông Năm, ba chồng chị, hẳn nhiên là thầy dạy thằng Bi nhà chị rồi. Nhưng còn...
- Vợ thằng Bình mới về, hả con?
Hạnh bước vào nhà, lí nhí:
- Thưa ba, thưa... thầy!
Ông Năm giới thiệu ông khách với con dâu một cách trân trọng:
- Thầy Nam đây là thầy của thằng Bình hồi nhỏ. Ông như người cha thứ hai của nó vậy.
Quay sang thầy Nam, ông nói giọng cảm kích:
- Tôi với bà nhà tôi cứ nhắc thầy hoài. Tụi tui nói không có thầy, thằng Bình nhà tui giỏi lắm cũng chỉ là anh nông dân sản xuất giỏi ở dưới quê thôi chớ nói chi...
Hạnh xin phép vào nhà trong. Chị giả bộ như đang sửa soạn chén đũa, ly tách gì đó nhưng thật ra vẫn cố ý nghe lén câu chuyện giữa hai người quen cũ...
Vậy là đã rõ. Thầy Nam thì Hạnh không còn lạ gì mặc dù chưa hề biết mặt. Anh Bình vẫn nhắc thầy và những buổi họp lớp hằng năm ở nhà thầy huyện Bình Minh, Vĩnh Long. Anh kể: “Hồi mới giải phóng anh đang học lớp bảy thì ba biểu nghỉ. Lúc đó khó khăn lắm mà anh lại là con trai lớn, phải tiếp ba làm mấy công ruộng và coi sóc bầy trâu sáu con, cày bừa thuê cho nhà người ta để còn phải nuôi bốn đứa em còn nhỏ. Anh và má khóc hết nước mắt mà có lay chuyển được ông đâu. Thầy Nam hay chuyện, lội năm sáu cây số đường bờ mẫu với cả chục cây cầu khỉ đến tận nhà anh. Hai ông uống rượu với nhau gần sáng đêm. Không biết thầy Nam đã nói gì với ba mà mới bốn giờ sáng, ba kêu cả nhà thức dậy. Ba biểu má chuẩn bị cơm nước cho hai thầy trò, biểu anh khăn gói theo thầy lên ở luôn trên trường, dặn cuối tuần hẳn về một lần, rồi đốt đuốc đưa hai thầy trò đi sớm để còn kịp buổi học”. Anh Bình còn có một kỷ niệm nhớ đời với thầy Nam nữa, đó là chuyện thầy dắt mấy đứa lên thi vào trường cấp 3 thành phố. Mấy đứa lần đầu tiên đặt chân lên đất Cần Thơ, đứa nào cũng ngơ ngác như con nai vàng. Thầy cứ y như là cô bảo mẫu, lo hết mọi chuyện. Ngay trước hôm thi buổi đầu tiên, anh Bình chẳng may bị xe quẹt, thầy lại phải chạy vạy lo cho anh đủ thứ. Vậy mà rồi thầy cũng động viên và đích thân đưa anh đến tận trường thi. Chuyện tốn kém ngoài dự kiến một mình thầy lo hết. Mấy đứa rất thương và biết ơn thầy vì lại được học thêm ở thầy bài học về tính tháo vát nữa. Gần tháng sau, một đứa bạn mới tình cờ phát hiện được chiếc nhẫn cưới, vật bất ly thân của thầy, đã “đội nón ra đi” chính ngay buổi chiều hôm ấy... Mà cũng chính vì cái thâm ân đó mà mấy đứa sau này có công ăn việc làm đều nhớ đến thầy. Cứ đến hẹn lại lên, hằng năm, cứ đến ngày kỵ cơm của cụ thân sinh thầy, ai nấy cũng đều có mặt đông đủ, coi như là họp lớp vậy.
Đầu óc Hạnh cứ rối mù cả lên, không biết phải ứng xử, ăn nói như thế nào trước mặt mọi người lát nữa đây. Hay là... Hạnh rón rén trở ra, khép nép rót nước mời ông Năm với ông giáo. Chị cứ ấp a ấp úng mãi mới mở được lời:
- Thầy ơi, cái đơn... Hay là thầy cho em xin lại... Em xin lỗi thầy!
Ông Năm ngơ ngác hỏi:
- Vợ thằng Bình! Bây nói đơn từ gì vậy?
Thầy Nam đỡ lời:
- Thì cái đơn xin cho cháu nó nghỉ học mấy ngày chơi với ba nó đó mà...
Quay sang Hạnh, ánh mắt thầy Nam hiền từ, độ lượng bao nhiêu càng khiến hạnh ái ngại, bất an bấy nhiêu. Ông giáo như nhìn thấu suốt tâm trạng của Hạnh, giọng ông ôn tồn:
- Chuyện nhỏ thôi, cô à! Cứ mở lòng với nhau để đỡ khỏi mở miệng, phải không? Thôi, cứ coi cái đơn ấy như tấm thiệp mời cho buổi tiệc chiều nay đi, được chớ?
Hạnh lí nhí “dạ”, lại xin phép trở vào trong. Ngoài phòng khách chuyện của hai người quen cũ vẫn cứ râm ran.
- Học trò thầy giờ thành đạt hết, sướng nghen!
- Đâu có, chú Năm! Cũng có kẻ vầy người khác chớ chú. Đứa nào thành đạt thì mừng đã đành mà đứa nào không đắc ý mình cũng buồn nẫu ruột, chú ơi! Mỗi người một cảnh, một cái có thể gọi là số mạng, đồng ý là vậy! Nhưng hễ gặp hay nghe nói đứa nào lận đận; vất vả quá thì chính mình lại ray rứt, băn khoăn không biết hồi đó mình đã làm hết trách nhiệm của mình với nó chưa... Trách nhiệm, cứ trách nhiệm hoài chú à!
Đến lúc này thì Hạnh không làm sao dằn lòng được nữa. Chị khóc ngon lành. Trong tiếng nấc nghẹn như chỉ để mỗi mình nghe mà thấm thía, mà ngưỡng vọng: “Thầy ơi! Biết chừng nào con mới được như thầy...”. Ngoài kia có tiếng còi xe, tiếng cười nói xôn xao mừng rỡ. Bình đã về tới. Hạnh lau vội nước mắt, cố nhoẻn miệng cười với tấm gương trước mặt.
Hình như khi người ta được khóc và khóc được thì cảm thấy nhẹ lòng hơn chăng?