Truyện ngắn: Hoàng Khánh Duy
Tôi ấn cái nút nhỏ xíu trên đầu chiếc radio cũ kỹ trên kệ. Nghe radio trở thành thói quen ngọt ngào và thanh thản của tôi từ thuở sinh viên, sáng lên giảng đường, chiều muộn về mở nhạc quê hương cho vơi nỗi nhớ nhà. Nhìn ra cửa sổ căn hộ chung cư tầng tám, bầu trời tháng bảy đùng đục. Những cơn gió lạ ùa về lành lạnh thịt da. Chiếc radio nhỏ vang lên giọng nói quen thuộc: Một người bạn phương xa gửi tặng bạn K. bài hát “Chiều nước lũ” với lời nhắn “Chúc K. và gia đình luôn luôn bình an”. Bài hát ấy vang lên. Tim tôi quặn thắt.
Một nỗi nhớ da diết choáng ngợp. Mùa này quê tôi nước nhảy khỏi bờ, tràn qua bao cánh đồng, vườn tược. Sáng hôm sau, tôi bắt chuyến xe về nhà. Ngồi trên xe, qua cửa kính, hai bên đường ruộng đồng xanh ngắt một màu. Những bờ đê nghiêng nghiêng trong gió. Những mái nhà tranh, xóm làng xa xa. Tôi thấy quê mình mùa lũ đẹp mà buồn đến nao lòng.
* * *
Tôi thức dậy khi trời chưa sáng hẳn, nhớ lời má dặn, tôi nhóm bếp nấu nước pha trà cho ba, rồi bắc nồi cơm. Má ra khỏi nhà từ sớm, tôi nghe tiếng má mở dây cột ghe dưới bến sông rồi róc rách bơi đi. Ba cũng lục đục ra đồng. Tôi ngồi bó gối trước nhà nhìn những chuyến tàu chạy ngang qua. Mấy hôm rày, trời lác đác mưa. Ba tôi tranh thủ nhổ hết mấy giồng khoai chất lên xe rồi trữ dưới bếp chờ người đến cân. Cơm chín, má về. Chiếc xuồng vừa cập bến sông tôi đã nghe tiếng má nói vọng: “Mới tháng này mà trời ráng mỡ gà, mối bay đầy đồng, chạy ra kêu ba nhổ hết giồng khoai giống đi Hương, khéo mưa úng hết”.
Tôi hiểu nỗi lo của má. Mưa dầm tháng sáu, tháng bảy, cộng với nước sông chảy về, tràn lên đồng ruộng bãi bờ. Nhà tôi nằm trên cánh đồng Tri Tôn, cạnh dòng Vĩnh Tế, đón con nước đầu tiên của thượng nguồn sông Mê Kông đổ về. Vừa chạy ra đón má, tôi vừa nói: “Ba ra đồng rồi má ơi”. Trời ngả màu nhưng vẫn chưa mưa, không khí còn ngột ngạt và hơi nóng vẫn còn hâm hấp. Má nói: “Chắc ba bây ra đồng nhổ khoai, đắp bờ, khoai chưa ai cân mà mưa sắp tới...”.
Những gia đình khác trong xóm đã chuẩn bị đón đợt nước lũ tràn về từ nhiều ngày trước. Hôm đi ngang đồng chú Út, tôi thấy chú khệ nệ đào con mương dẫn nước từ đồng ruộng ra dòng sông. Vợ chồng bác Hai người leo lên mái nhà, người ở dưới đất buộc dây rịt chặt lỡ có gió lớn cũng không bị thổi bay. Những bao đất chất quanh nhà, đồ đạc được kê cao. Dần dần công việc ấy trở thành thói quen, không ai còn chạnh lòng mỗi độ nhìn mưa rơi ngoài mái hiên làm ướt giàn mồng tơi tháng sáu...
Đêm ấy nước lên nhanh đến bất ngờ. Tôi đang nằm trong mùng thiu thiu ngủ, ngọn đèn chong vẫn còn tỏa quầng sáng leo lét trên đầu giường và đài phát thanh đêm muộn vẫn còn rỉ rả từ chiếc radio. Bỗng có tiếng lao nhao từ bên sông vọng về. Tôi bật ngồi dậy, ba thắp thêm ngọn đèn nữa cho sáng, má bưng đèn dầu chạy ra sân nhìn trời. Ba nói hấp tấp: “Hai má con lo kê chỗ khoai mới nhổ lên cao, nhanh lên”. Nói rồi ba leo lên ràng lại mái nhà. Tưởng thong thả mấy bữa nước mới về, ai ngờ...
Má con tôi chất đống khoai vào thúng rồi để lên sàn cao. Người quê tôi đã quen với những cơn lũ bất chợt ào đến, rồi nấn ná lại ít hôm, có khi cả tháng trời, có khi ròng rã gần nửa năm nước vẫn còn lép xép ngang bờ đất. Trong phút chốc, nước từ thượng nguồn đổ về dòng kênh Vĩnh Tế rồi lênh láng khắp ruộng đồng, gò bãi. Nước nhảy vọt qua bờ đất cao, dâng lên nền nhà, ngang qua đầu gối chai sần của ba. Má chưa kịp xắn ống quần lên đã ướt, chỉ kịp quơ vội mấy bộ quần áo, mớ tập vở của tôi rồi trèo lên chiếc xuồng con để giữa nhà ngồi co ro nhìn nước nổi. Trong màn đêm chập choạng, tôi thoáng trông thấy chiếc xuồng nhỏ xíu của ai đó đứt dây trôi lênh đênh giữa dòng. Ba tôi nhón người ngồi lên bộ vạc, hai chân ba buông thõng xuống dưới. Má chồm tay phủi mấy hạt nước lăn tròn trên khuôn mặt ba, nhẹ giọng: “Ướt hết rồi, để tui lấy áo khô cho mình thay, không cảm bây giờ”. “Lát nữa hẳn thay, để coi còn việc gì nữa hay không”, ba vừa nói vừa rót tách trà nóng uống cho ấm bụng, “Hình như nước thôi lên rồi. Năm nay thời tiết bất thường quá”.
Ba ngồi chồm hổm trên vạc, ướt sũng và đôi môi tái mét. Má con tôi nhóm lò hâm nóng cơm và mẻ kho quẹt để ba ăn ấm bụng và có sức canh nước tới sáng. Ba bưng chén cơm, và vội, mắt vừa nhìn ra xa xăm. Trời vẫn chưa ngớt mưa, cánh đồng và dòng sông, bãi bờ và lau sậy... tất cả chìm trong biển nước trắng xóa.
Sáng hôm sau, bầu trời vẫn còn đùng đục. Mưa đã thôi rớt những hạt to và nước đã thôi dâng lên, dòng sông dịu dàng giữ lại cho đồng bằng mực nước xăm xắp ngang bụng ba khi đứng trên nền nhà cũ. Nhà là một dấu chấm nhỏ giữa biển nước bao la, con đường và dòng sông trôi dài tít tắp. Bác Hai chân tay lấm lem bùn đất liêu xiêu chống xuồng khắp xóm, hỏi vọng: “Đêm qua nước lên, bà con bình an hết hả?”. Ba tôi trả lời: “Bình an hết. Anh Hai đi đâu sớm vậy?”. “Đi thăm bà con, bình an hết cũng mừng. Ruộng vườn nhà tui ngập tuốt”, bác nói.
Ba tôi mời bác vô nhà ăn chén cơm cho ấm bụng, bác tấp xuồng vô bến. Má tôi đốt lửa nướng khô, khô lóc, khô sặc, khô phi nướng lên mùi thơm nức mũi, khiến bụng đói cồn cào. Và được vài đũa, bác hai vỗ đùi một cái rõ kêu, nói lớn: “Sau con nước năm nay chắc làm ăn được. Đợt lũ năm ngoái nhà anh Sáu trúng đậm, qua một mùa nước mà sắm được tivi, nồi điện”. “Ừ, mất cái này sẽ được cái khác. Trời đất luôn công bằng”, ba tôi cười vang rồi nhìn ra ngoài kia đồng nước mênh mông.
Chiều, ba tôi hăm hở xách lưới vó ra đồng bắt cá. Trên dòng giăng mắc một màn sương, ngồi trên vạc trước nhà tôi thấy má bơi xuồng cho ba giở cái đó sông, ba cười chất phác. Trong đó nào cá linh, tôm càng xanh, cua, ốc, lươn, chạch... Rồi trời tạnh mưa, má tôi lại bơi xuồng mang cá ra chợ bán kiếm tiền sửa lại mái nhà dột mưa lỗ chỗ, xóm lại rôm rả như xưa...
* * *
Tôi không nhớ tuổi thơ của tôi đã trải qua bao nhiêu mùa nước nổi. Ký ức bàng bạc màu nước, loang loáng màu lam biếc của hoàng hôn. Tôi vẫn thường nghe từ cõi xa xôi vọng về tiếng nước chảy ồ ạt qua bờ đất cao cao, nước tràn vào đồng ruộng mênh mông và ngôi nhà yêu dấu.
Mấy mùa nước lũ đi qua. Lâu lắm, má tôi ngồi một mình. Má gầy khòm, vai nặng trĩu gánh thời gian. Má đơn độc trong căn nhà nhỏ giữa biển nước mênh mông. Ba mất trong buổi chiều nước lũ rút dần xuống dòng kênh Vĩnh Tế, mắt ba nhắm thinh, bình an. Ba nằm trên mảnh đất quê nhà thoang thoảng mùi cỏ cây, mùi phù sa và mùi Tri Tôn đất nóng. Tôi rời xóm nghèo lên thành phố lao vào cuộc mưu sinh. Má thủy chung bám trụ cánh đồng xưa, ngôi nhà nhỏ với dòng sông quê từng mùa con nước vơi đầy. Nghĩ về má, nước mắt tôi ứa ra.
Tôi luôn canh cánh trở về ôm đôi vai nhọc nhằn của má, kéo tấm mền đắp ngang người má mỗi đêm mưa. Tôi về ràng lại mái nhà, chống đỡ cái cột hay xách dao chặt đứt mấy tàu lá dừa cạnh nhà để trời giông khỏi đổ. Tôi về hái chùm bông điên điển, bắt con cá rô đồng nấu cho má nồi canh thơm nồng hương vị đồng quê, hát cho má nghe mấy câu mà ngày xưa má thường hay hát ru tôi say giấc mỗi độ đất trời trở gió...