12/01/2008 - 22:20

Cá bông gấm

NHẬT HỒNG

Trời chập choạng tối, chị Hai đi lên đi xuống mé rạch trông trông, ngóng ngóng, miệng lầm bầm: “Đi phát cái gì mà tới bây giờ chưa dìa, không biết có chuyện gì xảy ra hay không?”. Bác Bảy từ nhà trên hỏi vọng xuống:

- Thằng Hai đi với ai vậy bây?

- Đi với chú Tâm. Ba ơi! “Thằng Tâm là tay phát giỏi, chí thú lo làm ăn. Một công đất cỏ sông chằn, nó chém tới mười giờ là xong, kịp vô ăn giỗ. Chắc tụi nó ráng phát cho rồi để ngày mai ăn đám giỗ nhà chớ gì”. Có tiếng hì hụi ở mé rạch. Chị Hai thót ra sân. Anh Hai xốc kè chú Tâm bước lên bờ. Trong bóng tối nhá nhem chị Hai hoảng hốt hỏi:

- Ai vậy ông?

- Chú Tâm chớ ai?

- Có sao không?

- Không! Anh Hai đặt chú Tâm lên bộ ván ngựa. Nói:

- Ngồi nghỉ cho khỏe một chút hãy về. Bác Bảy lo lắng hỏi:

- Cái vụ gì vậy Hai?

- Có gì đâu ba ơi! Thằng Tâm bị cá bông vọt vô ba đì.

- Cây phảng ở đâu, tụi bây để như vậy?

- Tụi con thấy trời xế chiều, rút phảng lên xuồng đi về bỗng thằng Tâm phát hiện ra một quầng khói đèn bằng cái nón lá. Tâm la lên:

- Ổ cá lớn lắm... ! Tụi con vừa lội tới cách chừng hai thước. Bỗng một con cá bông sọc xanh đỏ dữ dằn, cái đầu phùng ra bằng trái dừa khô nhào lên, nhắm vào bắp đùi con táp tới tấp. Con hoảng hốt phóng lên bờ giồng, nó theo cáp tét cái quần của con. Tâm mặt mày tái mét, từ từ lui nhẹ về phía sau bỗng một con cá bông khác nhắm vào bụng của thằng Tâm vọt một cái thật mạnh, nhờ bụi cỏ lác, con cá trượt qua phía bên hông. Tâm biết gặp cá mới đẻ hung hăng nên lội lên bờ, vừa quay mình con cá hoành đầu lại vọt vào ba đì, Tâm té nhào. Con phóng xuống kè Tâm lên bờ giồng. Con cá bông rượt theo, con phể cho nó một cây cù nèo, nó lặn mất.

Bác Bảy cầm cây đèn chong đến xem, thấy vết cá đâm Tâm hơi sưng nhưng không đến nỗi gì. Bác hối anh Hai:

- Đem chai dầu cù là thoa lên một chút sẽ hết. Đợi cho thằng Tâm đi về nhà. Bác Bảy ngoắt anh Hai đến gần hỏi:

- Ổ cá ở đâu?

- Ở gần miệng đìa mười hai...

Bác Bảy nhìn ngoài trời đêm đặc quánh lẩm bẩm: “Năm nay tao nghi cá bông lên quầng ổ ở khoảng đó không sai. Bởi vì đìa Mười hai nó ăn liền với lung bồn bồn, lung ba sa. Một vạt lung đìa này rộng lớn, bao trùm cả cánh đồng. Ngọn rạch Trà Vơ lớn chia làm 3 ngánh: Lăng Cù, ngã giữa, ngã ngây. Ba ngã này ăn đi lên Đìa gòn, Mướp sát, Ba đá, Ba đốt... Rồi cây gáo tán dù nằm giáp ranh Thới Thạnh, Thới Lai, Cờ Đỏ. Phía mặt trời mọc là ngọn rạch ông chủ Tỵ giáp với kinh Giáo ngánh thuộc đất Bác vật Lang, bên này là Hội Đồng Phuông...

- Tại sao ba biết có ổ cá bông? Anh Hai hỏi.

- Con cá lóc, cá rô, có trời mưa lớn là có trứng. Cá bông lại khác, loài cá đồng sống ở độ nước sâu hơn. Cá bông dữ như sấu, ăn mồi sống nên hai hàm răng của nó chơm chởm bén nhọn. Khi đẻ trứng nở hàng chục ngàn con, nhưng khi đến lớn không còn bao nhiêu. Bởi chúng ăn thịt nhau, con nào ốm yếu thì bị con lớn nuốt chửng. Khi mình phát đất liền để cấy, khoảng tháng 6 âl cá bông có trứng, nó theo lùng đìa quầng ổ đẻ con. Đến tháng mười theo nước rút xuống sông. Bình thường nó đã hung dữ rồi, khi đẻ con, nó dữ gấp mười lần. May cho tụi bây đó nghen, có người bị táp đứt “của quý” thành hoạn quan luôn.

- Cá bông lớn hết cỡ bao nhiêu ký lận ba?

- Ở đâu thì không biết chớ ở vùng mình thì cá lớn nhất là bằng bắp vế, khoảng bốn ký lô trở lại. Từ khi nó đẻ tháng 6 đến tháng mười xuống sông, nó khoảng hai ký lô. Sống sót qua năm sau lên đồng lớn gấp đôi. Con cá cái lớn hơn con đực. Con đực đẹp lắm, kỳ vi đỏ xanh óng ánh, mình có sọc xanh, sọc đỏ, sọc trắng luôn thay đổi. Khi nó tấn công con mồi hoặc người nó phùng ra như cá lia thia nên thấy nó mà khiếp sợ. Hồi lúc ba khoảng tụi con, vào tiết tháng mười người ta che tum dọc theo kinh rạch ngồi đâm cá bông.

- Làm sao đâm được, ba?

- Con cá bông 5, 10 phút phải lên ngớp lấy hơi một lần, nó lựa dưới bóng yên ấm lên ngớp. Mình đợi ở đây, phải thật bình tĩnh đâm mới được. Khi nó trừng cái đầu lên, vội đâm là trật, vì vẩy của nó cứng lắm. Đợi nó nhẹ nhàng hớp hơi quây mình trở xuống thì đâm ngược vẩy, mỗi cái mỗi con. Một con nước, người ngồi đâm trong tum có thể kiếm được vài chục ký lô cá bông khỏe ru. Khi nó còn là ròng ròng, đi ăn theo đàn, nó vọi lên một lần vài chục con thôi, thay phiên nhau lên ngớp. Còn ròng ròng của cá lóc thì ăn móng nguyên bầy. Nên từ xa, người ta có thể phân biệt được cá lóc hay cá bông.

Trời vừa hửng sáng, Bác Bảy cũng vừa tới đìa Mười hai. Từ xa, bác Bảy nhận ra vị trí ổ cá bởi nghe nó đang ầm đùng rượt đuổi. Bác dặn anh Hai:

- Con chống thật êm, nhanh lên tranh thủ nó còn đói mồi.

- Chi vậy ba?

- Nó no rồi chỉ vẩy đuổi để dọa nạt cá khác đến gần chớ không cắn câu.

Bác Bảy đứng trước mũi ghe, cần câu trên tay, con vịt được buộc phía trên lưỡi câu một chút. Lưỡi câu mũi nhọn hoắc và cái ngạnh vươn ra chơm chởm. Cá nghe động, chia nhau bảo vệ ổ con. Bác Bảy quay lại phía sau ra dấu cho anh Hai dừng lại, từ từ thả con mồi xuống. Mồi chưa chạm mặt nước, đã nghe một cái ủm... nước tung tóe lên. Lưỡi câu bị nước quạt vạt qua một bên, con vịt chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi mất hút dưới mặt nước. Cần câu nhẹ cẩng trên tay bác Bảy. Anh Hai nóng ruột bước lên phía mũi. Bác Bảy ra lịnh:

- Đứng tại chỗ.

Bác Bảy mở giỏ, lôi con vịt thứ hai, lần này Bác kéo lưỡi câu thật sát dưới bụng con vịt. Chuẩn bị sẵn để đó, bác kéo gói thuốc rê ra vấn đốt. Mặt nước phẳng lặng như tờ. Cặp cá bông trừng lên gần mũi ghe như thách thức. Anh Hai hối bác Bảy thả câu xuống.

Bác Bảy chăm chú nhìn cặp cá bông tới lui song song với nhau. Bác thả con vịt cách ổ chừng ba mét, từ từ kéo đến ổ. Con vịt như cảm nhận ra tai họa rình rập ở phía dưới mặt nước nên nó cố chòi đạp thật mạnh. Cách ổ vài tấc, một tiếng ủm thật lớn, nước tung lên, con vịt văng lên cỏ lác. Mặt nước sôi động mạnh. Bác Bảy bình tĩnh kéo con vịt xuống mặt nước. Chừng như cặp cá bông linh tính biết được có lưỡi câu, nó không ăn táp con mồi như thường khi mà chỉ dùng đuôi đánh vạt con vịt ra khỏi ổ, bác Bảy nói với anh Hai: “Con cá đực đã lót dạ con vịt rồi nên no mồi”. Còn con cá cái thì thời gian này nó nhịn đói.

- Chẳng lẽ nó nhịn thèm hoài sao? Để con.

Vừa nói anh Hai bước tới trước mũi ghe giành cần câu trên tay bác Bảy. Anh Hai kéo con vịt lội loanh quanh ổ cá hai vòng mà nó vẫn êm ru. Anh kéo vòng thứ tư, bỗng một tiếng ủm, nước không tung lên mà chỉ sôi bọt, cần câu ghịt xuống. Anh cố lấy sức bình sinh bật cần câu lên. Vút! Lưỡi câu vèo trên không, con vịt chết đơ văng lên cỏ, hai cái chân cụt mất. Bác Bảy ném tàn thuốc lá xuống mặt nước, nói:

- Nó cắn cụt giò vịt chớ không cắn câu.

- Thôi! Nghỉ ăn cơm con ơi! Chạng vạng mình tính - bác Bảy nói:

- Đi! Anh Hai miễn cưỡng chống xuồng vô rặng cây gáo.

Trời xế chiều, bác Bảy nói với anh Hai:

- Còn cơm nguội, đem ra ăn ba hột cho vững dạ, bữa nay mình về nhà tối lắm đó!

“Cúm cúm... cúm cúm”. Tiếng dội vào mặt nước nghe chắc lọi. Tiếng chim kêu báo hiệu một ngày sắp hết. Bác Bảy bịt lại tấm khăn trên đầu, quấn thêm điếu thuốc lá. Nhả khói, bác nói:

- Trời chạng vạng, cá bông táp hỗn. Bữa nay phải bắt cho bằng được.

- Nghe tiếng vịt kêu, nó biết mình nhử.

- Ba có cách rồi? Bác Bảy lôi con vịt ra khỏi giỏ làm cái vòng vào sợi dây câu cho chặt. Còn phần chân con vịt thì Bác kiếm cọng cỏ thật nhỏ, quấn lưỡi câu vào. Ngắm nghía một lúc. Bác nói:

- Lần này phải dính câu. Bác Bảy đứng trước mũi thả thế. Vừa thả con vịt xuống, một tiếng “hực” dưới mặt nước nghe gọn lỏn, con vịt kêu thất thanh, cần câu tuột khỏi tay bác Bảy.

- Dính rồi con ơi! Anh Hai phóng lại mũi xuồng tiếp bác Bảy.

- Cá lôi mất cần câu rồi sao ba? - Anh hỏi.

- Mất đâu mà mất, cho nó lôi cho đã đi, thấm mệt như khúc củi, mình lần theo kéo lên xuồng chớ gì.

Quả đúng như vậy, một lúc sau, bác Bảy phóng xuống ôm con cá bỏ lên ghe. Con cá dài thậm thượt. Nhìn sắc màu sặc sỡ của vẩy cá, bác Bảy nói: “Đúng là cá bông gấm rồi”.

- Tại sao kêu “cá bông gấm” hở ba?

- Khi con cá lớn đúng hết cỡ mới hiện đủ màu sắc, đẹp mượt mà như nhung nên người ta gọi “cá bông gấm”. Nhìn xuống mặt nước, đồng cỏ xanh rờn rợn, bác Bảy nói:

- Thôi dìa con ơi!

- Còn một con nữa mà ba.

- Để cho nó nuôi con.

- Mình không bắt thì người khác cũng bắt. Anh Hai chống xuồng trở lại ổ.

Hơn nửa giờ sau, anh Hai lôi lên xuồng một con cá bông cái lớn gấp đôi con cá đực. Bác Bảy chắc lưỡi: “Tội nghiệp quá!”. Anh Hai hỏi:

- Cá con tự sống được không ba?

- Tàn một điếu thuốc chúng sẽ vào bụng những loài cá khác hết trọi!

Bác Bảy về tới nhà khuya lơ, khuya lắc. Anh Hai hỏi:

- Rộng cá bằng cái gì ba?

- Lấy cái mái đầm (cái lu có thể chứa mười hai giạ) rộng mới vừa, bởi mình nó dài tới bảy tấc lận mà tao đã đo rồi. Đợi ăn cơm nước xong, bác Bảy nói thật khẽ với anh Hai:

- Nè con! Con cá bông lớn, sáng sớm con đem gởi cho bộ đội F14 (*) đóng ở ngọn Lăng cù. Còn con cá đực đem qua đám giỗ nhà của chú Chín tụi bây. Cá bông này mà nấu cháo, xé trộn gỏi bắp chuối, còn món nào hơn...

Bây giờ, cá bông gấm gần như tuyệt chủng. Nó chỉ còn tồn tại trong môi trường nhân giống, được ăn những thức ăn chế biến nên cá không hung hãn như khi còn hoang dã.


(*) F14 là phiên hiệu của địa phương quân huyện Ô Môn. Vào thời điểm 1966-1967 F14 nổi như cồn.

Chia sẻ bài viết