Thu quay lại xóm Củi Đước. Xóm làng giờ sung túc chứ không vắng vẻ như xưa. Mũi đò cập bến, Thu men theo con đê trở về xóm nhỏ từng tiêu điều nằm giữa cánh đồng. Thu vừa đi vừa nhớ chuyện hai mươi năm trước.
***
- Chắc phải đi đến đó một chuyến thôi, má con Thu à.
- Chim trời cá nước, biết đâu mà tìm hả ông?
- Khó cỡ nào cũng phải thử. Cũng là máu mủ ruột rà, bỏ sao cho đặng hả má nó?
Má im re không nói nữa, lúi húi lấy chai dầu lửa treo trên vách nhà, châm vô cây đèn trứng vịt, dịch ngọn đèn cho sáng. Ánh sáng ngọn đèn xua đi quầng đen bủa vây không gian căn nhà thăm thẳm ra tận ngoài bãi sông. Tiếng kêu thắt thẻo của bìm bịp ăn đêm đậu trên đám bần ổi ngoài bến nước, nghe buồn não nuột.
- Nghe dì Ngàn nói tháng trước xuống miệt dưới lấy dầu lửa nước mắm về bán, thấy thím nó ngồi bán hàng bông ngoài chợ, áo bà ba vá chằng vá đụp trên vai.
- Có chắc là thím nó không hả ông? Mười mấy năm bặt vô âm tín rồi còn gì
Ba nằm trên bộ vạt tre, thở dài ngao ngán. Má ngồi trên ghế, đập muỗi. Thu nằm trong buồng ngáp dài thườn thượt mà vẫn chưa ngủ. Nghe má nhắc đến chú đến thím, Thu buồn đến tan chảy cả lòng.
Thu không nhớ rõ chú thím ngày xưa trông như thế nào, vì hồi ấy Thu còn nhỏ lắm. Chút ký ức còn sót lại trong Thu là người thím có mái tóc dài chiều chiều ra bến sông ngồi giặt đồ, chải tóc; là người chú mỗi lúc đi đồng đi ruộng về có con cá lóc to bằng cườm tay là đưa cho má "Chị đốt rơm nướng cho Thu nó ăn, cá lóc mùa này ú dễ sợ". Nhà chú thím với nhà ba má Thu cách nhau một con mương nhỏ rau muống bò chằng chịt. Mỗi khi nhắc đến chú đến thím là những ký ức ấy lại vụt đến. Khác hẳn cái hình ảnh người thím dữ dằn cầm chổi quện vào lưng má những nhát đau đớn.
Chiếc ghe xuôi về xóm Củi Đước.
Mùa hạn. Nước dưới kinh loang loáng màu đỏ bầm như trái sắn. Đường về đó xa, ghe đi không nghỉ cũng mất hai ba ngày trời. Ba ngồi sau lái điều khiển, tiếng máy nổ giòn giã. Má ngồi trước mũi, xõa tóc Thu ra bắt chí. Ghe dừng nhiều bận để ba hỏi đường, sẵn cho cái máy cũ kỹ "nghỉ mệt". Ghe dừng, má dọn nồi niêu xoong chảo, cái cà ràng nhỏ xuống ghe để nấu cơm dọc đường. Chuyến này có khi cũng mười bữa nửa tháng mới quay lại.
Ghe chạy vào con mương nhỏ nằm vắt ngang cánh đồng. Phèn đọng trên mặt nước từng váng to đùng khô khốc. Tiếng nước văng giòn tan. Ba ngồi sau lái, đăm chiêu. Trên trời nắng, hai bên ruộng đồng vắng tanh. Chắc vụ gặt vừa xong, gốc rạ còn lưa thưa như muốn cháy đi vì nắng. Cỏ dại cũng buồn xanh.
Tới hồi hỏi được tung tích của thiếm, má mừng rơi nước mắt. Việc bây giờ là phải neo ghe lại đây mấy hôm, chờ thiếm bán hàng bông đến để má nhận mặt. Đến ngày thứ ba thì gặp thím, má nhận ra dáng quen thuộc của thím từ xa, hớt hơ hớt hải văng nón lá chạy đến, gọi "Ba Hiền, Ba Hiền, đúng là thím rồi
". Má chạy đến níu lại. Hai người phụ nữ, khổ nghèo, thiếu thốn, nhưng trái tim vẫn đong đầy tình cảm thân thích.
Người phụ nữ rưng rưng. Bây giờ Thu mới nhìn kỹ khuôn mặt thím đã già đi rất nhiều, chằng chịt những nếp nhăn, mái tóc rối bù xơ xác. Áo chẳng đặng lành, mảnh vá chi chít, ngang dọc. Thím gục đầu vào vai má. Ba nặng nhọc từng bước, Thu theo sau.
- Thím nó kêu thằng út về quê mình đi. Máu mủ ruột rà, bỏ sao đặng hả thím?
- Anh hai, em
em xin lỗi.
Ba vỗ vai thím. Mắt ba cũng rơm rớm, ngoảnh vội mặt để má không nhìn thấy dòng nước ươn ướt đang chảy theo những nếp nhăn.
Căn nhà nhỏ nép mình bên bờ sông nhỏ, dưới hàng bần, tháng này mùi bần chín thơm cả một khúc sông. Thím lên trước, ba má và Thu đi sau cùng. Ở đây cũng giống xóm Thu, cũng con sông nhỏ trước nhà, cũng mấy cây bần de ra bến nước, có cầu cây nho nhỏ để người trong xóm ra ngồi giặt áo, vo gạo, chải tóc
mỗi sáng mỗi chiều. Gió đồng phảng phất hương lúa cuối mùa. Xa xa, mấy bụi cỏ mươn phất phơ trong nắng gió như những thân phận đơn độc giữa đất lạ quê người
Rồi cũng đến lúc gặp chú ba, người chú năm nào vẫn yêu thương Thu như con gái ruột, bởi vợ chồng chú thím không con. Chú kêu thảng thốt xen lẫn mừng tủi:
- Trời
Anh
Anh chị hai.
Má lặng người. Ba run run, mắt đỏ hoe.
Một thoáng lặng lẽ. Những ánh mắt của thương yêu, trìu mến khe khẽ nhìn nhau. Thu vội chùi đôi mắt ướt mem không để cho mọi người nhìn thấy. Tính Thu là vậy, có lẽ giống ba.
Chú giờ già đi thấy rõ, tóc bạc, bạc hơn cả tóc của ba. Lưng chú còng xuống, người gầy hao, da rám màu nắng gió chứa đựng khổ ải nhọc nhằn của 10 năm chạy trốn lỗi lầm. Hôm đó má nằm trên võng, Thu chơi nhà chòi ngoài hè. Thím ba băng con mương nhỏ qua đứng trước thềm nhà chửi má xối xả. Má có hiểu nguồn cơn gì đâu. Thím chửi má tan nát vì nghe người ngoài chợ đồn ba má giấu mất di chúc của ông nội, chỉ cắt cho vợ chồng chú thím nền nhà với mảnh ruộng. Ba đi ruộng về nghe tiếng thím thì nhảy vội lên bờ phân trần, ruộng vườn đó giờ có nhiêu anh em đều biết, ở đâu ra nữa mà giấu? Chú bênh vợ xông vào đánh ba. Má cũng bị thím nện lên lưng mấy cáng chổi cọng dừa, sau này trái gió trở trời là đau nhức tê tái tận ruột gan. Rồi vợ chồng chú thím bỏ nhà bỏ đất đi trong một đêm mưa gió, sau khi biết mình nghe lời sóng gió gây ra lỗi lớn với anh chị.
Từ đó, ký ức về chú thím cũng phai dần trong Thu.
- Con Thu đây hả chị hai, trời nó lớn chừng này rồi.
Thu chạy lại, chú ôm Thu. Hồi đó có cái bánh cục kẹo là chú thiếm nhớ tới Thu đầu tiên, sao Thu nỡ quên.
Nhưng rồi chú thiếm cũng không theo ba má về lại quê nhà. Bởi ở đây chú thiếm đã có mảnh đất căn nhà của mình. Thu nghĩ có lẽ chú thiếm cũng còn sợ miệng lưỡi thế gian ác nghiệt khi trở về.
Đó cũng là lần cuối cùng ba má gặp lại chú thím. Sau bận ấy, một cơn tai biến đã biến ba Thu từ khỏe mạnh sang tật nguyền. Không ai trong nhà Thu còn nghĩ đến chuyện cộ xoong nồi chảo chén xuống ghe, giật máy chạy ba bốn ngày trời đến Củi Đước nữa.
Trong một đêm mưa gió, đám bần ngoài bến nước kêu rắc rắc, rồi cũng gãy đổ vì giông, ba ra đi, trước lúc mất ba ú ớ mãi, mắt ba chảy xuống hai dòng nước uớt gối.
* * *
Bây giờ, Thu đã lớn, lưng má cong cong hình dấu hỏi. Thu làm y tá ở trạm xá xã, sau những tháng năm miệt mài đèn sách. Ba mất, một mình má lo trong lo ngoài, nuôi Thu ăn học. Những đêm trời trở gió, má thầm thì: "Ba con trước lúc mất ú ớ mãi mà không nói được nên lời. Chắc ông nhớ chú ba thím ba. Cũng anh em ruột thịt. Đau lắm chứ".
Bởi vậy vừa ổn ổn chuyện công việc và nhà cửa, Thu trở ngược dòng sông, về Củi Đước. Tìm.
Thu tìm được căn nhà của chú thím, nhưng người chủ lạ huơ. Rất lâu về trước chú cũng đã mất vì bạo bệnh. Thím bán nhà tìm về quê mẹ thời con gái. Đôi chân Thu rệu rã trở về. Ừ thì đến cuối cùng cuộc đời ba và chú vẫn không được gặp nhau, nhưng để hai người nằm cạnh nhau trên mảnh đất hương hỏa của tổ tiên, Thu có thể làm được. Thu lại tìm về quê của thím ba, xin thím thành toàn cho ước nguyện của ba Thu.
Truyện ngắn: HOÀNG KHÁNH DUY