Truyện ngắn: Hoàng Khánh Duy
Không phải ai cũng dám bỏ nghề để lên bờ kiếm sống. Như chị.
Lần nào nhớ về quãng đời khổ đau của mình, chị cũng hít một hơi thật sâu, trong mắt mênh mông biển cả. Chị nói không hiểu sao chị có thể chịu đựng hắn ta chừng ấy năm. Niềm vui hạnh phúc hôn nhân đến với chị một cách chớp nhoáng rồi vụt đi. Những người phụ nữ sống trên thuyền cứ nghĩ chị không dám bỏ chồng, bởi anh ta là chỗ dựa vững chắc nhất của chị. “Bỏ chồng thì ai phụ bà nuôi nấng đàn con?”, “Ông chồng dễ gì chịu nuôi đứa nhỏ sau khi ly dị?” - đó là những lời chị nghe nhiều nhất khi ấy. Những người phụ nữ ấy hơn chị ở chỗ gia đình ấm êm, tuy cuộc sống trên biển cực nhọc, nhưng họ vẫn còn được chồng chở che, yêu thương.
Chị thì không. Chồng chị cộc cằn, thô lỗ, vũ phu. Đôi bàn tay ngày nào nâng niu gò má chị, nắm lấy tay chị bước xuống chiếc thuyền đậu ở bến, sau này bao lần đánh chị đến thương tích đầy mình. Chị dần mất đi niềm tin sau mỗi cơn giận đầy bạo lực của chồng. Nhất là sau ngày biển động, bão giông, thất bát và con đói la khóc… anh ta lại trút nỗi giận đời lên chị bằng những trận đòn, không khác gì một kẻ mất hết nhân tính. Lúc đó chị chưa đủ can đảm để rời con thuyền lên bờ kiếm sống. Sống trong không gian của con thuyền, với mênh mông sóng biển, với những mùa giông bão… chị đã quen. Từ bỏ một không gian đã gắn liền với chị nhiều năm trời để di chuyển đến một không gian khác, chị không dám. Chị sợ ở đó còn nhiều gió giông hơn trên biển - những cơn bão động trong lòng.
- Hồi trước chị cứ nghĩ mình chịu đựng là vì con. Để con có cuộc sống đủ mẹ cha. Nhưng khi những trận đòn không chỉ mình chị chịu, mà lan sang cả những đứa con, chị mới tỉnh ngộ rằng chịu đựng không phải là điều tốt nhất mà chị làm cho con mình.
Lúc chị nói với tôi điều này, dãy nhà trọ đã lên đèn. Vừa rửa chén chị vừa cười cười bùi ngùi kể chuyện. Nụ cười hiền lành, chân chất và pha lẫn chua xót của người phụ nữ được sinh ra và lớn lên cùng biển, nay phải xa biển.
Có tiếng gõ cửa bên ngoài. Chỉ là phép lịch sự chứ không phải chị đóng cửa. Ở xóm trọ này, vui nhất có lẽ là buổi chiều và chập tối, khi công nhân, những người buôn bán dạo trở về sau một ngày làm việc, mưu sinh. Tiếng nói tiếng cười, tiếng xôn xao bát đũa… khiến xóm trọ sôi động trong khoảnh khắc trước khi nhà nhà người người tắt đèn chìm vào giấc ngủ sâu.
Liên tới, xếp giày qua một bên, bước vào phòng trọ. Chị nhổm dậy định rót cho Liên ly nước nhưng Liên cản:
- Em đi liền mà chị. Em ghé báo chị hay xưởng sản xuất giày da đã đồng ý nhận chị vô làm, lương khởi điểm sáu triệu đồng, nếu tăng ca thì tính thêm. Họ hẹn chị sớm mai đến ký hợp đồng lao động.
Nghe Liên nói, mắt chị sáng rực, chồm đến nắm lấy tay Liên, run run:
- Mừng quá! Vậy là chị có thể nuôi được sắp nhỏ ở thành phố này rồi! Mấy bữa nay chị lo quá, sợ người ta không nhận mình. Dân làng chài như chị tìm việc làm cũng khó…
- Chị nhận thêm việc về nhà làm, chắc không quá thiếu hụt. Em Phát cũng đã học được nghề sửa xe rồi...
- Chị cảm ơn Liên và em nữa - chị quay qua tôi mắt rưng rưng - Các em là người dưng nước lã, có máu mủ ruột rà gì với chị đâu mà tốt quá!
Tôi nhìn Liên mỉm cười. Liên có công hơn tôi khi giúp chị học nghề và xin được việc. Liên còn xin cho Phát, con trai lớn của chị, đi học. Tôi thì giúp mẹ con chị có chỗ trọ ban đầu. Tôi gặp chị khi đến dãy nhà trọ thăm người bạn, thấy chị đang năn nỉ chủ trọ cho khất tiền phòng thêm vài ngày. Còn Liên vốn làm việc ở văn phòng khu công nghiệp, cũng là thành viên một nhóm thiện nguyện hay nấu cơm từ thiện tặng người khó khăn. Liên biết đến chị qua nhiều lần thấy chị dẫn con đi nhận cơm.
Chúng tôi ngồi thêm một lát rồi ra về. Khi ấy xóm trọ đã tối ngập. Bước cùng Liên trên con đường ngổn ngang đá vụn, tôi thấy tim mình run run. Trăng mười sáu soi xuống con đường, chảy dài trên mái tóc óng ả của Liên. Ngoài phố rực rỡ ánh đèn. Gió tháng này mát rượi.
* * *
Mấy tháng sau, tôi ghé ngang thăm chị.
Cơn mưa vừa dội xuống thành phố, rửa trôi những bụi bặm thường nhật. Cơn gió mát rượi thổi vào xóm trọ làm khô mớ quần áo người ta đem ra sân phơi sau mưa. Chị vui mừng kêu tôi vô nhà chơi. Chị đang đan áo - công việc chị nhận về làm thêm mỗi buổi tối khi mùa chướng về. Chị khoe với tôi Phát đem tiền về cho chị, chị không nhận nhưng Phát cứ dúi vào tay và nói: “Mẹ nuôi con biết bấy năm, tốn biết bao nhiêu, giờ con có nhiêu đây, không lẽ mẹ không nhận sao?”. Chị khoe đứa con nhỏ nhất đã được vô lớp 1. Còn đứa giữa biết đọc, biết viết rành rọt. Bé viết tên tôi, cả tên Liên vào tờ giấy, dặn chị gửi cho tôi phòng khi tôi đến bé đi học không có nhà.
Tôi thấy hạnh phúc trước sự bình yên, êm ấm của chị, rồi không ngăn nổi tò mò nên hỏi:
- Chị có nhớ biển không?
- Nhớ chứ em, nhưng bây giờ chưa phải lúc quay lại đó. Đợi mấy đứa nhỏ lớn lên, cứng cáp chút nữa. Khi xa biển chị mới biết cuộc sống này còn những điều cũng rộng lớn như biển vậy. Đó là tấm lòng của những người tốt, như Liên và em...
Mưa lại chợt đến. Lắc rắc. Lộp bộp. Những hạt mưa tuôn đều xuống mái hiên. Chị bất chợt hỏi tôi:
- Vậy em với Liên định bao giờ cho chị uống rượu mừng đây?
Tôi gãi đầu. Khoảnh khắc đó mặt tôi đỏ bừng như trái cà chua. Nóng hổi.
Tôi xem đồng hồ trên tay. Cũng đến giờ đi đón Liên rồi. Mưa cũng vừa tạnh cách đây không lâu. Tôi đứng dậy chào chị. Chị tiễn tôi ra thềm ba căn nhà trọ. Sau mưa, trăng nhú lên, sáng rực.