17/05/2015 - 09:00

Truyện ngắn: Phong Linh

Biển

Anh muốn ra thành phố học. Thành phố ở phía bên kia, chỉ cần đi hơn một giờ đồng hồ, có thể đã là một cuộc sống hoàn toàn khác. Nhưng cuối cùng, anh vẫn ở lại đây, trên một hòn đảo nhỏ được bao bọc xung quanh bởi gió và biển, quanh năm gió thổi.

Anh cũng như bao người đàn ông khác ở nơi này, làn da sạm nắng, mái tóc hơi ngả màu đỏ, tay cuộn những cơ bắp mạnh mẽ. Anh nghe lời cha mẹ ở lại đảo học hết cấp hai rồi theo cha đi biển. Lớn lên, anh lấy một người vợ cùng trên đảo.

Cả đảo đi biển, mỗi gia đình đều có một cái thuyền thúng, đánh bắt quanh bờ nên mỗi ngày thu về chẳng được bao nhiêu. Thứ gì cũng thấy thiếu. Anh bàn với vợ đi Vũng Tàu làm biển thuê. Họ có tàu lớn, còn mình là dân đi biển từ trong nôi. Đi tàu lớn, dù làm thuê, thu nhập cũng khá hơn ở nhà. Anh muốn sau này những đứa con của anh được học hành, được đi xa.

Ngày tiễn anh đi, vợ anh không dám khóc. Chị đứng trên đảo nhìn dáng chồng ngồi trên tàu, lặng lẽ như một bức tượng vọng phu đã đi vào truyền thuyết.

Anh đi biền biệt mấy năm. Biển càng ngày càng mênh mang. Đứa con trai của anh chị cũng đã lên bốn. Chị vẫn lặng lẽ chăm con, lo toan nhà cửa, và tháng tháng mỏi mòn chờ những lá thư viết vội anh gửi về.

Có nhiều đêm nhớ chồng, chị lại muốn bồng con đi Vũng Tàu. Nhưng anh đi biền biệt trên biển, bao giờ mới neo lại được nơi đất liền. Biển cứ dài rộng vời vợi mãi, chị không thể biết anh đi về hướng nào, nhưng cứ mỗi sáng chị lại đạp xe ra bến tàu ngóng anh. Rồi không chỉ có chị, nhiều người phụ nữ nữa cũng ra ngồi nơi bến tàu nhìn ra hướng phố.

Năm ấy, bão về đột ngột trên đảo. Bão ập đến như một cơn ác mộng, để khi tỉnh dậy, bão tan, chỉ còn lại đổ nát và mất mát. Người dân trên đảo chưa kịp dụi mắt cho tỉnh hẳn đã chìm trong cơn khóc và vòng khăn tang trắng chít trên đầu bao nhiêu con trẻ.

Anh vẫn còn nhớ khi mình nhận được tin báo vợ mất thì đã chừng hơn hai tháng qua đi. Anh khóc. Nước mắt mặn như nước biển. Khi tàu cập bến, anh vội vã trở về đảo. Đi biền biệt ba bốn năm trời quay trở về, anh hình dung đảo vẫn không đổi khác gì nhiều. Nước vẫn xanh ngắt, và gió êm đềm mênh mang. Nhưng khi thuyền cập bến, anh ngỡ ngàng chứng kiến khung cảnh xác xơ. Trận bão đã qua đi vài tháng, dư âm nằm sâu ở những khuôn mặt buồn bã, lặng lẽ.

Anh quỳ sụp trước mặt cha mẹ, trước bàn thờ vợ. Anh nhìn đứa con bốn tuổi đang cặm cụi chơi một mình mà không khóc nổi. Khuôn mặt vợ anh trên bàn thờ với nụ cười xa xôi. Anh cố nhớ và cố níu chị lại gần, thật gần, nhưng tất cả nhòa đi, tan biến. Anh chỉ còn thấy một vùng biển, tràn sóng, bọt tung trắng xóa…

Từ ngày về, chiều nào anh cũng dắt con đi dạo dọc đảo, nhìn xung quanh là biển bao trùm. Anh nắm chặt bàn tay nhỏ xíu của con, rồi bao lần tự hỏi, sau này con sẽ ra sao?

Có những đêm, anh bước một mình trên đảo. Không gian yên tĩnh đến ngột ngạt. Chỉ còn tiếng gió, anh ngồi lặng yên, ngỡ như tiếng khóc, rồi cứ để nước mắt sau bao ngày kìm nén tự nhiên chảy. Anh nghĩ, tại sao nước mắt lại mặn, tại sao nước biển lại mặn? Hay nước biển cũng chính là nước mắt, bởi người dân vùng biển như anh, những lúc buồn đến khóc đều chạy ra biển, cứ để nước mắt thấm xuống biển. Anh yêu biển, nhưng anh lại sợ hãi tột cùng khi thấy biển đã cướp đi của anh bao người thân thương, gần gũi.

Anh ở lại đảo, nhưng không đi biển nữa. Với số vốn tích cóp được sau những ngày ở Vũng Tàu, anh tậu một chiếc xe chở hàng cho dân trên đảo. Anh tự hứa sẽ cho con trai ra thành phố học, sẽ làm gì đó trên đất liền, để cuộc đời không phải gắn liền với biển nữa. Nhưng con trai của anh đã lớn lên từ biển, nên chẳng thể khước từ biển. Nó chống đối lại anh bằng những lần bỏ nhà đi biển cùng với những thanh niên khác trên đảo.

Anh la mắng, nó cho rằng anh là kẻ thất bại, chỉ có thể lẩn trốn. Anh đứng sững người trước những lời chỉ trích của đứa con trai mười bảy tuổi. Suốt bao năm, dành hết tình yêu thương cho con, nhưng ngẫm lại anh và con chưa bao giờ một lần trò chuyện cùng nhau. Chỉ thỉnh thoảng hai cha con mới trao đổi với nhau vài câu chuyện. Còn lại, con anh chỉ quấn quýt với ông bà nội. Khi cha mẹ anh lần lượt qua đời, nó cứ lủi thủi một mình.

Anh cố gắng gần con, nhưng chỉ được đáp trả bằng sự lặng lẽ. Con anh vẫn trốn học đi biển.

Sáng hôm ấy, như mọi lần, anh đi chợ cá của đảo, nơi những con thuyền đi biển đêm qua trở về. Đang mùa mực, thuyền thu hoạch khá nhiều. Mặt ai cũng rạng ngời. Anh tìm mãi không thấy thuyền của người chú mà con trai anh đi cùng. Anh cứ đi loanh quanh, chờ đợi, như có lửa đốt trong lòng. Một nỗi lo sợ mơ hồ dâng lên, như một cơn say sóng, khiến anh choáng váng, hoảng sợ và buồn nôn.

Gần xế trưa, vài người đàn ông hốt hoảng chạy về phía anh:

- Thuyền của con anh đi xa quá, hình như bị kẹt lại bên ghềnh đá…

Anh nghe mà chân tay run lẩy bẩy. Sự giận dữ dâng lên, rồi tan đi, đọng lại là nỗi lo sợ. Anh chỉ còn duy nhất một người thân, anh không muốn biển cướp mất. Mười mấy năm nay anh không đi biển, biển còn rộng lòng để che chở cho anh? Chân bước xuống thuyền, lòng anh bỡ ngỡ như gặp lại người bạn cũ. Anh bắt đầu tìm kiếm.

Con thuyền lênh đênh trên biển, gần cuối chiều mới đến được ghềnh đá. Đúng là thuyền của con trai anh đã bị chệch hướng do gió lớn và bị mắc kẹt tại một hang đá. Lúc nhìn thấy hai chú cháu thì trời đã tối, những đợt sấm liên hồi ập tới. Họ dùng dây thừng kéo con thuyền nhưng không thể nào di chuyển nổi. Cuối cùng, họ đành phải bơi ngược trở lại thuyền của anh. Gió ngày càng mạnh, và mưa bắt đầu trút xuống, nhưng nhìn thấy con, lòng anh trở nên bình lặng.

Vừa kéo được Tú lên thuyền, anh đã ôm chầm lấy con, nước mắt ràn rụa. Thằng bé luôn miệng xin lỗi anh. Nước mắt, nước mưa, và nước biển hòa lẫn vào nhau.

- Con sẽ lên thành phố học- vài ngày sau, trong bữa cơm chiều, Tú nhìn vào mắt anh và nói như vậy.

Anh nhìn con, buông đũa xuống, mắt rưng rưng:

- Nếu con muốn đi biển, cha sẽ không cấm nữa.

- Con muốn đi học hàng hải, rồi trở về làm biển. Con muốn học để có hiểu biết hơn. Như thế có ích hơn việc con đang làm.

Anh cũng đã từng khao khát được đi học, để hiểu biển hơn, nhưng rồi vì nhiều lý do mà ước mơ ấy không thành. Giờ, con trai anh đã lớn. Nó sẽ sống với biển, và làm được nhiều điều tốt hơn anh đã từng làm.

- Cảm ơn cha vì đã giúp con hiểu được điều đó- thằng bé vừa cúi xuống mâm cơm, vừa lí nhí trong miệng.

Anh cũng cảm thấy bối rối. Đây là lần đâu tiên cha con anh trò chuyện với nhau thực sự sau bao nhiêu năm.

- Con không trách cha vì đã bỏ biển?

Thằng bé lắc đầu:

- Dù cha có đi biển nữa hay không, cha vẫn thuộc về biển. Và con cũng vậy.

Nó ngẩng đầu nhìn anh bằng đôi mắt sâu thẳm, ánh lên một niềm hứng khởi lạ kỳ, vừa gần gũi, vừa xa xôi, nhưng lại đầy nhiệt thành. Nó khiến anh xúc động và yên tâm.

Chia sẻ bài viết