Truyện ngắn: Vũ Thị Huyền Trang
Xuyên trở lại vào những ngày lập xuân. Thị trấn trên đỉnh núi mù sương vẫn vỗ về Xuyên trong suốt những tháng năm xa cách. Ngôi nhà ngày xưa của bà giờ mọc lên khách sạn cao chót vót, mảnh vườn sum suê không còn nguyên vẹn. Từ khi bà ra đi, hình như mảnh đất này cũng lạnh lẽo hơn nhiều. Xuyên trở về, thuê căn phòng số 303 trong khách sạn không tên, trên tấm biển lớn trước cửa chỉ thấy vẽ một cành hoa trên núi. Căn phòng có nhiều cửa kính, ở vị trí thuận lợi có thể đứng ở đó ngắm ký ức của Xuyên. Cảm giác như mùa xuân đến thị trấn này rất muộn, hoặc đã bị chìm khuất đâu đó trong dải sương mù và mưa giăng kín lối. Nhưng khi Xuyên vừa cắm nước pha trà thì đã thấy sương tan, hừng đông phía chân trời như một nỗi gọi mời tha thiết.
Ngày xưa Xuyên thường trở về ôm bà những lúc đớn đau. Tay bà ấm áp hơn tất thảy mọi thứ và Xuyên như con mèo nhỏ muốn ngủ quên trong lòng bà suốt một mùa đông lạnh giá. Kể từ khi Vĩnh đi, Xuyên chưa bao giờ nghĩ mình sẽ đợi chờ cuộc tình ấy. Nhưng rồi cơn bão lòng vẫn không ngừng thổi. Sau bao nhiêu cố gắng thì cuối cùng Xuyên cũng không giữ được tình yêu. Xuyên bé nhỏ lầm lũi về xứ mù sương, tâm hồn cũng xác xơ như lá khô qua bao mùa gió. Bà đốt một đống lửa nhỏ góc vườn, những ngón tay lạnh cóng của Xuyên như được hồi sinh. Bây giờ chỗ đống lửa năm xưa của bà được khách sạn trồng mấy thân cây giả. Màu xanh vô hồn ấy khiến Xuyên nhớ lửa đến thắt tim.
Xuyên từng nhiều lần ngồi bên Vĩnh giữa thành phố chỉ để kể về bà và những tháng năm thơ ấu sống trên đỉnh núi mù sương. Nên hình ảnh của bà từ lúc nào cũng đã tồn tại trong tâm trí Vĩnh, gần gũi và thân thuộc. Suốt những năm tháng yêu nhau, không biết đã bao lần Vĩnh từng theo Xuyên rời phố về thăm thị trấn nhỏ này. Anh bị ám ảnh bởi cuộc sống quẩn quanh nơi đây. Nhịp sống chậm buồn như một bộ phim không lời, đặc tả từng chuyển động của con người và cảnh vật mà mất mấy chục giây ống kính vẫn chĩa về phía cái bàn, cốc uống nước, cái ghế và dáng ngồi của một bà cụ đã gần đất xa trời. Ở thành phố là nhịp sống sôi động, gấp gáp đến mức người ta xích mích chỉ vì cướp vài giây đèn đỏ. Vĩnh đã quen với cuộc sống ấy nên thấy mình như bị đóng băng trong thế giới của thung lũng mờ sương. Tâm trí Vĩnh bị hút về thế giới sôi động, lấp lóa sắc màu. Giống như bố mẹ Xuyên đã chọn mảng màu tươi sáng thay cho màu sương mù ở xứ này.
Căn nhà đầy đủ tiện nghi dưới phố, bố mẹ đã mua khi rời thị trấn nhỏ của bà. Căn nhà từng rất ấm cúng khi tham vọng của con người còn ít, rằng chỉ cần được sống bên nhau là đủ. Nhưng sau này thì Xuyên hiểu, sự chia ly không chỉ khi bố sang trời Tây làm ăn còn mẹ theo người tình vào Vũng Tàu sinh sống. Dường như sự tan tác, chia lìa từng manh nha trong những chiều mẹ ngồi ngoài hiên nhà ngóng từng đoàn xe đi phượt đang trôi xuống núi, mặt trời cũng lặn sâu, trùm kín bóng đêm lạnh lẽo. Trên chuyến xe rời thị trấn, Xuyên ngoảnh lại nhìn căn nhà nhỏ của bà mờ lấp trong sương sớm. Xuyên chưa bao giờ dám nghĩ mình sẽ xa rời mảnh đất nơi chôn rau cắt rốn này. Ðó là lần đầu tiên Xuyên thấy mình đang đứng lại, cả thị trấn trôi đi…
* * *
Lần thứ hai trong đời Xuyên thấy mình đứng lại còn cả thế giới như đang trôi đi, ấy là khi bà mất. Những người thân không có mặt đủ đầy trong đám tang bà. Người thì không kịp về, người thì bận rộn hun hút. Xuyên chênh vênh đến mức phải bấu víu vào một dòng tin nhắn gửi cho Vĩnh, nhưng cuối cùng tin nhắn bị trả lại, số thuê bao không liên lạc được. Xuyên khóc, tự hỏi tại sao toàn những người xa lạ đưa tiễn bà thế này? Bàn tay bà từng nhóm lửa, đan khăn, may áo ấm cho biết bao thương yêu mà giờ tay bà lạnh cóng? Bà biết Xuyên chỉ có bàn tay bà để trú ngụ vậy mà sao bà nỡ bỏ Xuyên lại một mình? Cả căn nhà và khu vườn nơi cất giấu những tán cây ký ức bốn mùa, tại sao bà lại bán đi?
Số tiền bà để lại đủ cho Xuyên sang nước Pháp xa xôi, tìm hai người đàn ông quan trọng của đời mình. Ðó là ước nguyện cuối cùng của bà nhưng Xuyên thì đâu nỡ rời xa. Cả bố và Vĩnh đều đã trôi đi, mỗi ngày mỗi xa như dòng chảy. Xuyên đâu thể cứ neo theo dòng nước mà xuôi và làm sao nắm chặt được trong tay gió của đại ngàn. Hình như ngay từ khi sinh ra, từ lúc bắt đầu thì những người ấy đã không thuộc về Xuyên. Dẫu Xuyên có trong mình một nửa dòng máu của bố và cả trái tim chỉ biết sống vì tình yêu dành cho Vĩnh. Xuyên là thân cây nhỏ đứng giữa đất trời rộng lớn mà chờ đợi người thương, hoặc không vì chờ đợi ai cũng cứ đứng giữa trời như thế. Tất cả những người thân của Xuyên đều đã tìm thấy lý do để ở lại một mảnh đất nào đó, mà họ gọi đó là hạnh phúc.
Thị trấn mù sương của bà trong những năm gần đây đã được quy hoạch thành một điểm đến du lịch lý thú. Du khách thường kéo đến nghỉ mát vào mùa hè, lấp đầy cả nghìn phòng nghỉ. Khi mùa đông đến, những ô cửa buông rèm, cả thị trấn vắng lặng. Hiếm hoi lắm mới nhìn thấy bóng người, mấy sạp hàng mọc ở ven đường như chỉ mở ra cho đất có hơi người. Còn Xuyên, mùa xuân trở về nơi này chỉ để ngắm những ô cửa kính và tiếc nuối ngọn lửa bập bùng trong ký ức thôi sao?
Xuyên mới gần ba mươi tuổi, Xuyên vẫn còn rất trẻ và nhận ra tuổi thanh xuân nằm ở lòng người chứ không phải là những mùa héo úa trôi trên từng đốt ngón tay. Ngọn lửa này lụi tàn, ngọn lửa khác sẽ bùng lên. Xuyên đã thôi nghĩ rằng mình chỉ là một đứa trẻ bị bỏ rơi lại phía sau. Ðâu thể trách những người thân trong cuộc hành trình đi kiếm tìm hạnh phúc. Kể cả bà cũng vậy, Xuyên tin bà đã đến một thế giới ấm áp hơn. Suốt cả cuộc đời, lý do bà ở lại thị trấn mù sương này có lẽ cũng chỉ đơn giản là để đốt lên đống lửa ở góc vườn sưởi ấm những tiếng cười thân thuộc phương xa, để thấy chuyến đi của họ không bao giờ là sai lầm, nuối tiếc.
* * *
Xuyên quàng khăn, xách ba lô xuống núi vừa kịp lúc mặt trời lên cao, nắng xuân trải thảm vàng rực cả thị trấn như một khoảnh khắc diệu kỳ. Hoa nắng ngoài kia thắm lại, trời ấm dần. Thiên nhiên hào phóng và lịch thiệp đưa tiễn cố nhân. Lần này là núi đứng lại còn Xuyên cùng chuyến xe khách màu xanh đã trôi đi.
Xuyên vừa đi thì có một chàng trai tìm đến, chọn đúng căn phòng số 303 trong khách sạn không tên. Nhân viên khách sạn còn chưa kịp dọn phòng, ấm trà trên bàn hãy còn nóng, hé nắp ấm, chàng trai ngửi thấy mùi hoa sơn trà. Anh bước đến bên cửa sổ, vén tấm rèm cửa màu hường ngắm cảnh vật mờ ảo qua cửa kính. Trên cửa kính còn đọng lại một giọt sương cuối cùng như giọt lệ. Chàng trai thoáng giật mình, mở từng ngăn kéo trên chiếc bàn nhỏ đặt sát giường thấy còn vương lại hương hoa oải hương. Cả cây son môi màu hồng cánh sen bị bỏ quên ở đầu giường cũng giống màu son cô gái ấy vẫn thường dùng. Mùi hương nước hoa và cả cách ủ hoa sơn trà cũng giống với người con gái ấy. Chàng trai bước nhanh về phía cửa kính nhìn ra, thấy một chuyến xe khách màu xanh đang chầm chậm xuống núi.
Bây giờ là mùa xuân, thị trấn trên núi đã tan sương, nắng rót vàng lên cỏ cây như mật ngọt. Chàng trai ngồi lại, áp chén trà nóng lên má, thấy nơi đây gần gũi, thân thuộc biết nhường nào. Nhắm mắt, nhấp một hụm trà mà tưởng như mùi hương dịu dàng của đôi môi thiếu nữ vừa chạm nhẹ. Ngay cả khi đang ngồi đây, Vĩnh cũng thấy nhớ mảnh đất này đến cồn cào.