12/09/2009 - 20:27

Thương cho hát bội quê mình

Hát bội – tiết mục đặc sắc trong ngày lễ hội hàng năm ở Công Thân Miếu, phường 5, thị xã Vĩnh Long.
Ảnh: BẢO TÀNG VĨNH LONG

Hàng năm, cứ vào khoảng tháng ba đến tháng năm âm lịch, hầu hết các đình thần ở Nam bộ đều tổ chức cúng Kỳ yên mong cho mưa thuận gió hòa, quốc thới dân an. Đây là thời gian các gánh hát bội ở các tỉnh thành lại hoạt động.

Theo các cụ cao niên ở xã Phong Hòa, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, từng hoạt động sân khấu: hát bội có mặt ở Nam bộ cùng thời với việc xây dựng những ngôi đình làng, hoặc muộn lắm thì cũng khoảng tương đương với giai đoạn thiết lập các đơn vị hành chính cấp phủ, huyện, tổng, trấn, làng.

Trước đây, khi ông cha ta đến định cư một nơi nào trên đất mới, thì một trong những việc làm đầu tiên là xây dựng ngôi đình làng, trước là thờ một vị thần linh nào đó theo tín ngưỡng, sau là có nơi sinh hoạt văn hóa dân gian. Mỗi năm “đáo lệ Kỳ yên”, sau lễ hội thì làng tổ chức hát. Hát để “cúng thần”, nhưng chủ yếu là để giải trí cho dân làng. Thời trước, những lưu dân đến định cư ở Nam bộ, có nhiều người biết nhạc lễ và hát bội.

Trong những ngày lễ Tết, hội đình làng, hoặc sau ngày mùa, những người nông dân tụ tập nhau lại thành nhóm từ 15 đến 20 người có cả đàn ông và phụ nữ. Họ dùng cây đàn cò tự chế, trống, kèn, sáo tự làm để đệm nhạc, tập dượt và biểu diễn một pho tuồng nào đó theo kiểu “cây nhà lá vườn”. Hết lễ thì “gánh hát” tự giải thể. Sau mùa hát bội, bầu gánh đem ghe về neo lại bến sông, tất cả các diễn viên từ chánh cho đến phụ rồi lính, hậu cần... trở về theo những nghề khác nhau để mưu sinh. Với nhiều nghề nghiệp, phần nhiều không phải là người khá giả nhưng trong họ có một điểm chung là sự say mê nghệ thuật hát bội. Dù đi đâu hay làm gì thì đến mùa hát bộ họ đều tập hợp lại để đi diễn. Mặc dù không thường xuyên đi hát nhưng khi tập dợt lại thì lối diễn của họ vẫn còn điêu luyện, các làn điệu bi ai vẫn còn não ruột, khán giả vẫn tán thưởng bằng những tràng vỗ tay nồng nhiệt. Điều này được minh chứng bằng những tiếng trống chầu “tùng, tùng” liên tục của các vị cầm chầu đứng tuổi am hiểu nhiều về nghệ thuật hát bội. ( Người cầm chầu đánh trống “ tùng, tùng” là khen hát hay còn gõ bên thành trống “ cắt, cắt” là đang hát dở phải sửa lại).

Trong nghề hát bội có hát chầu và hát cúng. Trong đó hát chầu cúng đình là khó hát nhất. Bởi lẽ, không khí ở khu vực đình làng rất nghiêm trang, nhang đèn sáng rực từ chính điện đến võ ca. Ngoài sân, người ta còn che thêm rạp, xếp bàn ghế có trật tự, những vị chức sắc mặc áo lễ, bịt khăn đóng chỉnh tề. Gánh hát bội nào được mời về “hát chầu” thì xem đó là một vinh dự lớn. Những diễn viên hát chầu phải là những người có tay nghề cao, kiên nhẫn, chịu đựng trước áp lực nặng nề. Hát cúng đình thường kéo dài đến ba, bốn giờ sáng. Thông thường các vở diễn ở dạng này phải có nhiều dũng, ít có bi và cũng không được đưa hề hát bội ra đùa cợt. Các vở diễn phải kết thúc có hậu.

Ngày xưa, học làm diễn viên hát bội – dù nghiệp dư - cũng rất “lao tâm khổ tứ”, không kém việc học chữ Hán Việt (chữ Nho) của các nho sinh. Mỗi ngày, học viên thường học hai buổi. Sáng, sau khi cúng tổ học ít nhất 5 giờ đến khi mệt thì nghỉ. Buổi tối cũng học, nhưng tùy vào sức khỏe và giờ rảnh rỗi của thầy dạy. Những người làm thầy chỉ là những người am hiểu nhiều về nghệ thuật hát bội dạy lại cho những người mới. Ngoài ra, khi đoàn diễn ở đâu đến lúc nào, học viên phải thức xem để học hỏi, rút kinh nghiệm. Đến khi hát trả bài, học trò phải thực hiện: miệng hát tay giữ nhịp. Nếu nhịp sai, tay bắt trật, thầy dạy bắt trò xòe hai bàn tay ra, đánh rất mạnh bằng một cây thước dẹp. Nhiều lúc, các học trò tay tấy đỏ, rát rạt, ứa nước mắt mà không dám khóc. Người thầy còn chú ý dạy cả lối sống, đạo đức cho học trò. Mặc dù, học không chính quy, không trường lớp, không cấp bằng nhưng sự “đào tạo” rất bài bản, học trò tiến bộ rất nhanh.

Tính nghệ thuật của hát bội còn được thể hiện ở tuồng tích và bài bản ca. Các kịch bản hát bội được xem là một tác phẩm văn học. Hầu hết các kịch bản đều được chuyển thể từ các tác phẩm văn chương tiêu biểu như các kịch bản nổi tiếng một thời như: San Hậu, Tam nữ đồ vương, Diễn Võ Đình , Ngoại tổ dâng đầu , Phụng Nghi Đình, Thần Nữ dâng ngũ linh kỳ, Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu, Hồ Nguyệt Cô... Bài bản ca cho thấy hát bội là nghệ thuật trình diễn ước lệ, văn chương đối đáp thanh tao, nói lối cách điệu, nhiều kiểu, ca hát giàu khúc điệu: Nam xuân, Nam ai, Nam dựng, Nam tẩu, Nam thoàn, Nam biệt và mươi lối “Hát khách” rồi “Thán”, “Bạch”, “Xướng”... để diễn tả mọi tình huống của cốt truyện.

Có thể cho rằng hát bội ở Nam bộ do không chuyên nên thường bị thua thiệt nhiều mặt, từ việc thu nhập đến đất diễn. Hát bội chỉ theo mùa rồi chia tay nhau trong suốt nhiều tháng trời nên rất khó cho công tác quản lý cũng như đào tạo. Các nghệ nhân chỉ vì lòng say mê nghệ thuật truyền thống mà tự phát tập hợp lại đi diễn nhằm lưu giữ một nét sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của cha ông.

Ngày nay đã có nhiều loại hình nghệ thuật xuất hiện thu hút công chúng nên hát bội ít được chú ý – đặc biệt là lớp trẻ. Đáng nói là hát bội đã bị pha tạp nhiều. Nhiều người lớn tuổi đi xem hát bội ở đình làng, thèm những tiếng “ ứ, ứ, ừ, ư..” mà không nghe được. Có những “gánh” hát bội trình diễn cải lương không ra cải lương, hồ quảng không phải hồ quảng.

Hát bội nói chung, hát bội ở Nam bộ nói riêng, là một loại hình nghệ thuật gắn bó với sự phát triển của văn hóa dân tộc; văn hóa phương Nam cần được quan tâm bảo tồn như một vốn quý.

LÊ VĂN DŨNG

Chia sẻ bài viết