01/05/2010 - 20:45

Những mảnh đời thời loạn

Truyện ngắn của PHỤNG TÚ


Đang ngủ say sau chầu rượu, Sáu Năng giật mình vì bị lay mạnh. Ông mở mắt thì nghe tiếng súng nổ và giọng nói hấp tấp của Tám Hoàng – người em kết nghĩa:

- Anh Sáu! Anh Sáu! Bọn lính Đại Hàn đi càn. Xuống hầm mau! Sáu Năng chưa kịp nhổm dậy thì Tám Hoàng chới với rồi đổ ập lên người ông. Sáu Năng vội nhấc Tám Hoàng qua một bên, lách mình nhổm vậy, kinh hãi thấy ngực mình đầy máu. Nhìn lại Tám Hoàng, máu đang trào ra từ một lỗ thủng trên ngực. Ông nắm hai vai Tám Hoàng lay gọi. Im lặng. Sờ mạch cổ Tám Hoàng thấy ngừng đập, Sáu Năng vội chạy ra ngoài.

Một cảnh đau lòng hiện ra trước mắt Sáu Năng: vợ Tám Hoàng nằm ngửa trên sân, ngực và bụng nhầy nhụa máu. Bên cạnh, một tên lính đeo phù hiệu “Mãnh-hổ” đang giằng co với bé Phượng con Tám Hoàng. Sáu Năng gầm lên như tiếng gầm của con sư tử nổi giận, phóng tới...

Tên lính Đại Hàn giật mình buông cô gái. Hai bàn tay của người võ sư dập mạnh vào hai mang tang, đầu gối thúc thẳng vào xương sống, hai bàn tay Sáu Năng như hai gọng kìm bấu chặt hai quai hàm tên lính. Tên lính đổ xuống như một thân gỗ mục. Sáu Năng xốc cô bé Phượng lên chạy ra cái hầm mà Tám Hoàng từng chỉ cho ông phòng khi bất trắc. Bên tai Sáu Năng, tiếng súng chát chúa ở những khu vườn bên cạnh...

***

Trong căn hầm tối đen, ẩm thấp, Sáu Năng nghĩ đến sự sống và cái chết, nghĩ đến kiếp người. Kiếp dân đen trong thời chiến tranh loạn lạc đôi khi không bằng con giun, con dế... Võ nghệ như Sáu Năng cũng không thể đương đầu với súng đạn nếu nắp hầm bất ngờ bị bật lên. Ông có thể đánh gãy xương sống một con bò, đá gẫy gập một thân cây chuối, nhưng cũng đành giậm chân kêu trời khi quả bom oan nghiệt đã cướp đi sinh mạng của vợ con để một mình ông trôi đi trong cái cuộc đời khốn nạn này. Ông chợt nhó đến Tám Hoàng... “Anh định làm gì anh Sáu?” – Tám Hoàng hỏi. Ông đáp: “Anh sẽ làm thầy. Anh muốn đem sở học của mình giúp những người yếu đuối để trở nên mạnh mẽ mà sống với đời”... “Anh nghĩ rất tốt. Nhưng mình không thể giúp hằng triệu người nghèo khổ bị hiếp đáp bằng cách ấy. Có lẽ...”. Tám Hoàng bỏ lửng câu nói nhìn ông đăm đăm. “Có lẽ thế nào?”.”Chắc em phải đi theo cách mạng thôi anh ạ. Anh đi với em nhé?”. Ông đã từ chối lời đề nghị của Tám Hoàng vì ông ghét chiến tranh. Đã cầm súng thì phải giết người. Mà ông học nghề võ, ghề thuốc là để cứu người...

Tiếng nói lào xào và tiếng gọi bé Phượng bên trên kéo Sáu Năng về với thực tại. Ông đẩy nắp hầm, ôm bé Phượng nhảy lên, gọi lớn:

- Bà con ơi! Bác cháu tôi ở đây!

Sáu Năng bàng hoàng khi thấy mái tranh nhà Tám Hoàng đã biến mất. Ngôi nhà chỉ còn trơ lại bốn tấm vách đang ngún khói, vật dụng trong nhà cháy sạch, thi thể vợ chồng Tám Hoàng cũng cháy đen. Ôi! Vợ chồng người em kết nghĩa của ông, đau đớn thay phải chịu hai lần chết. Một nỗi thương tâm và căm phẫn cứ dào dạt trong lòng Sáu Năng. Trong cuộc đời giang hồ nay đây mai đó kể từ khi vợ con chết hết, ông đã từng chứng kiến nhiều cái chết thương tâm, đã từng nghe nói nhiều về những vụ giết người man rợ. Con người có thể dã man đến thế sao?

***

Nghỉ phép được một ngày, trung sĩ Khánh lái xe jeep chạy bạt mạng về vùng ven. Mỗi khi về thăm vợ con, người ta chào hỏi đấy nhưng cứ một điều trung sĩ, hai điều trung sĩ, đến như cha vợ cũng gọi anh là trung sĩ. Người ta không hiểu cho: anh chỉ là một thằng lính cần vụ lái xe. Ba năm lính anh chưa từng bắn một viên đạn ngoại trừ mấy tháng quân trường. Nếu không vì cha vợ dọa từ con, anh đã đưa vợ con vào thành phố. Để vợ con ở quê, anh tạm tin tưởng cái mác trung sĩ cần vụ cho sếp cũng làm cho tụi xã, ấp và bọn lính kiêng dè. Nhưng với những thằng Đại Hàn mí lót và tụi Mẽo mắt xanh mũi lõ thì không biết đâu là lường. Nhà vợ đây rồi! Mái tôn vẫn còn nhưng sao lắm người thế này?

Trung sĩ Khánh nhảy xuống xe, phóng những bước dài vào nhà. Những ánh mắt đang chăm chú nhìn anh, đáp lại cái gật đầu của anh bằng sự im lặng. Câu nói của ai đó bùng lên phá vỡ cái không khí như đang đóng lại thành băng: “Nuôi con cho trắng da dài tóc để gả cho thứ rước giặc về nhà giết mình. Thật vô phúc!”.

Trước mặt trung sĩ Khánh, một người đang nằm xuôi tay quay đầu ra cửa trên chiếc giường tre, mặt được che bằng một tờ giấy trắng cùng ba miếng trứng và ba vắt cơm để trên đầu. Vợ Khánh ôm chầm lấy Khánh khóc tức tưởi.

- Bây giờ tính sao đây ông trung sĩ?

Trung sĩ Khánh quay nhìn người vừa hỏi. Tư Dung - chị vợ anh, đang ngồi trên chiếc ghế dài giữa nhà. Giọng người chị vợ chì chiết:

- Dượng đi lính “phụng sự chính nghĩa quốc gia” mà “quốc gia” lại giết cha vợ dượng, bắn phá nhà cửa dượng thế này. May mà em, cháu tôi đi vắng chứ ở nhà thì còn đâu để dượng nghe được tiếng vợ con...

Trung sĩ Khánh nhìn khắp nhà. Dấu tích của sự bắn phá còn nguyên: vách thủng lỗ chỗ, bàn ghế, tủ giường thủng toét từng mảng. Ánh mắt anh dừng lại trên thi thể cha vợ. Một sự căm phẫn bùng lên mãnh liệt. Khánh nắm chặt hai tay, gầm lên: “Quân khốn nạn! Quân giết người!”.

Tư Dung vẫn không buông tha:

- Dượng hét lên thì ích gì? Tiếng hét của dượng có làm cho cha tôi sống lại được đâu. Bây giờ dượng mới biết chúng là quân giết người à?...

Trung sĩ Khánh chán nản cùng cực. Anh bước lại ngồi lên chiếc ghế dài đối diện với người chị vợ bên này bàn. Thật là oan gia! Ông anh vợ kháng Pháp rồi tập kết ra Bắc, một người em vợ nhảy núi theo Việt Cộng, người chị vợ đang chì chiết anh đây không chừng cũng hoạt động ngầm, thì một người lính như anh liệu chiếm được bao nhiêu tình cảm của gia đình? Phải chi cuộc đời để anh lựa chọn màu áo tinh tươm của người thầy giáo thay cho màu áo lính oan nghiệt này!

***

Trận càn khốc liệt đã qua. Sự im lặng đã trở về với làng quê. Sự im ắng chứa đựng trong lòng nó nỗi bi thương bàng bạc. Mười sáu ngôi mộ vàng hoe đất mới góp vào chứng tích của tội ác của giặc.

Tang ma cho cha xong, Năm Kiều - vợ trung sĩ Khánh - nói với hai chị gái:

- Đến nước này thì em mong hai chị thông cảm cho em. Em phải theo ảnh ra chợ, ở đây nếu hai đứa nhỏ có bề gì chắc em sống không nổi.

Ba Hạnh nhướng mắt nhìn em gái rồi nói:

- Cùng là chị em một nhà, con Tư nên thông cảm cho con Năm. Phận gái có chồng thì phải theo chồng. Tao thấy chồng con Năm không phải là đứa xấu bụng. Trước khi khoác áo lính nó đã là thầy giáo. Cũng may là nó lái xe chứ chưa cầm súng gây nợ máu. Con Năm cũng lựa lời khuyên chồng: như bọn lính kia thì đừng vác mặt về đây nữa.

Nhưng cuối cùng thì Năm Kiều cũng không bỏ quê theo chồng. Khánh nói với chị: “Anh nghĩ lại rồi. Cha mới mất. Bây giờ chị em ly tán không nên. Ở đây em còn có chị. Đi theo ảnh, việc nhà binh ảnh đi về bất thường, khổ cho em”.

Năm tháng dần trôi qua. Người có tuổi vẫn sống trong khi những người trẻ thoát ly kháng chiến hay bị bắt lính rồi chết trận. Có những gia đình âm thầm khóc con lớn hy sinh chưa nguôi lại đón quan tài con nhỏ chết trận đưa về.

Một ngày mùa xuân năm 1975, trung sĩ Khánh nhận lệnh của Chi khu phó chở một sĩ quan vào thị xã. Nhìn người sĩ quan anh phải đưa đi, Khánh thấy ngờ ngợ như đã gặp một đôi lần. Anh chợt nhớ ra: Sáu Năng! Khánh từng gặp Sáu Năng ở nhà cha vợ trong một lần về thăm nhà. Nhưng là một võ sư, một người sống cuộc đời lang bạt kỳ hồ kia mà? Sao Sáu Năng là sĩ quan Cộng hòa? Ôi dào! Cuộc chiến này, thật – giả, giả – thật biết đâu mà lường. Khôn ngoan nhất là im lặng và quan sát (!).

Tháng 4-1975, đêm trước ngày thị xã được giải phóng, Khánh được lệnh dùng xe jeep đón một số cán bộ Cách mạng về họp. Người giao nhiệm vụ cho anh lần này lại là Sáu Năng! Bất ngờ lớn nhất là trong cuộc họp, mọi người mới biết ông “Chi khu phó” cũng là một cán bộ Việt cộng. Và người chỉ huy Khánh trong chiến dịch này lại là Bảy Luân, em ruột Năm Kiều, cũng là em vợ anh.

***

Hòa bình được mấy ngày, Khánh mặc thường phục lái xe chở Bảy Luân và “Chi khu phó” về thăm nhà.

Vào nhà, bất ngờ việc làm đầu tiên của ông “Chi khu phó” là đến thẳng bàn thờ cha vợ Khánh thắp nhang quỳ lạy, rồi nấc lên. Mấy chị em nhìn nhau. Bảy Luân nói, giọng nghèn nghẹn:

- Chị Năm, anh Năm biết ai đó không? Anh Sáu Kha đó! Ông “Chi khu phó” chỉ ở cách nhà mình gần bốn mươi cây số mà cha chết không về được đó các chị ơi!

Sáu Kha đứng dậy, quẹt ống tay áo lau nước mắt, nghẹn ngào:

- Em xin lỗi các chị. Em chỉ mong có ngày hôm nay được lạy cha cho thỏa nguyện...

Tư Dung bước tới đưa tay sờ lên khuôn mặt sần sùi của Sáu Kha. Nước mắt chị đã lăn dài trên má. Sáu Kha nắm bàn tay chị mình, xúc động nói:

- Đó là một câu chuyện dài chị ạ, em sẽ kể sau. Chỉ biết vì lợi ích cho cuộc kháng chiến nên phải vậy.

Bảy Luân nhìn cảnh hai chị em lòng cũng nao nao. Nhà có ba anh em trai đều thoát ly hết cả, hai chị gái thì có chồng, cha già nhờ một tay chị Tư chăm lo. Tính chị bộc trực, có phần đanh đá nhưng lại tình cảm nhất nhà. Chỉ tội cho chị duyên phận long đong. Bảy Luân chợt nảy ra ý nghĩ, nói:

- Xem kìa, ngày vui đoàn tụ thì phải cười lên chứ! À! Mà chị Tư đừng ác cảm với anh Năm nữa nha. Ảnh đi lính là do tổ chức phân công đó. Mà chị biết ảnh đến với cách mạng là do ai giác ngộ không? Nhờ anh Tám Hoàng. Mà anh Tám là em kết nghĩa với anh Sáu Năng đó!

- Sáu Năng là ai? - Tư Dung buột miệng hỏi.

- Là biệt động thành, hoạt động đa tuyến. Thôi để em gọi là anh Tư nghe chị Tư.

Tư Dung cảm thấy hai má nóng ran, mấy ngón tay mân mê chéo áo. Trông chị thẹn thùng cứ như một cô gái mới lớn.

Có tiếng súng nổ văng vẳng đưa lại ở nơi nào xa lắm. Chiến dịch chưa kết thúc. Nhưng những vùng mới giải phóng đã trả lại thân phận thật cho mỗi người.

Chia sẻ bài viết