Bài, ảnh: DUY KHÔI
Những năm gần đây, đề tài lịch sử được khá nhiều văn nghệ sĩ thử sức trong sáng tác văn học, nghệ thuật, trong đó có nhiều tác phẩm ghi dấu ấn rõ nét. Làm sao để thể hiện chân dung nhân vật lịch sử một cách hấp dẫn, mới mẻ nhưng không làm sai lệch lịch sử được xem là bài toán khó trong khai thác đề tài này.

Vở cải lương “Tiếng gọi non sông” nói về cuộc đời, sự nghiệp nhà thơ Phan Văn Trị từng được Nhà hát Tây Đô dàn dựng.
Câu chuyện này vừa được Hội Nhà văn TP Hà Nội bàn thảo tại một tọa đàm về tiểu thuyết lịch sử. “Tiểu thuyết lịch sử nên viết theo dã sử hay chính sử?”, “Có thể hư cấu hay không và mức độ hư cấu đến đâu?”... là những câu hỏi khó có câu trả lời thỏa đáng. Ngay cả những nhà văn được xem là “chuyên trị” thể loại này như Hoàng Quốc Hải, Phùng Văn Khai, Đinh Phương, Nguyễn Thế Quang, Lưu Sơn Minh, Bùi Việt Sỹ... cũng chỉ dừng lại ở mức độ chia sẻ cá nhân.
Đại biểu cho rằng thành công ở thể loại văn học này phải kể đến nhà văn Trần Thùy Mai với 2 bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ là “Từ Dụ Thái hậu” và “Công chúa Đồng Xuân”. Nếu như “Từ Dụ Thái hậu” viết về vị Thái hậu “đức cao vọng trọng” của nhà Nguyễn, được nhiều người kính nể thì “Công chúa Đồng Xuân” được xem là phần tiếp theo của tiểu thuyết đó. Hai bộ tiểu thuyết này được tiếng vang, trong đó “Từ Dụ Thái hậu” được trao giải thưởng Sách Hay 2020. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến cho rằng, tác giả Trần Thùy Mai dù rất tài năng và dụng công nhiều cho nhân vật lịch sử vốn rất nổi tiếng nhưng vẫn chưa thấy sự bứt phá rõ nét.
Không chọn viết theo chính sử, tiểu thuyết dã sử “Hoa mộc miên” của tác giả ở Cần Thơ Ngộ Tri cho thấy sự tâm huyết của ông với đề tài này. Tuy nhiên, việc khai thác tình tiết, câu chuyện, bối cảnh để làm nổi bật tính cách, dũng khí của danh tướng Phạm Ngũ Lão vẫn chưa hấp dẫn.
Ở lĩnh vực sân khấu cải lương, nhiều năm gần đây Đoàn Cải lương Tây Đô chọn dàn dựng nhiều vở cải lương đề tài lịch sử với các sự kiện, nhân vật gắn liền với vùng đất Cần Thơ như “Cánh buồm ngược gió” (nói về nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa), “Sống mãi với non sông” (nói về đồng chí Châu Văn Liêm), “Tiếng gọi non sông” (nói về nhà thơ Phan Văn Trị)... Bên cạnh nhận được sự đánh giá tốt khi khai thác “tài nguyên văn hóa bản địa”, cũng có nhiều ý kiến trái chiều về những vở diễn này. Từ phục trang, bối cảnh, câu chuyện đến lời thoại... bị so sánh giữa hiện thực và sân khấu hóa.
Lịch sử Việt Nam luôn là đề tài hấp dẫn trong sáng tạo văn học nghệ thuật từ xưa đến nay. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng để đời với các tiểu thuyết “Đêm hội Long Trì”, “An Tư công chúa”, “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”... Trước đó nữa, có các tác phẩm như “Đinh Tiên Hoàng” (1929), “Vua Bố Cái” (1929), “Lê Đại Hành” (1929) của Nguyễn Tử Siêu; “Giọt máu chung tình” (1926) của Tân Dân Tử; “Việt Nam Lê Thái Tổ” (1929) của Nguyễn Chánh Sắt. Các tác phẩm này đã vượt biên giới văn học, trở thành cảm hứng cho nhiều loại hình nghệ thuật khác như tuồng, chèo, cải lương, vọng cổ... Những vở cải lương lịch sử, cải lương tuồng trong suốt chiều dài hơn 100 năm của sân khấu cải lương cũng cho thấy sức hấp dẫn của đề tài này. “Tiếng trống Mê Linh” là một ví dụ điển hình. Kể lại để thấy, dư địa sáng tác văn học nghệ thuật đề tài lịch sử là rất dồi dào.
Khi sáng tác đề tài lịch sử, ranh giới nào giữa hiện thực và sáng tạo, câu hỏi này chỉ chính những người khi cầm bút mới trả lời được. Họ sẽ trả lời bằng cảm hứng sáng tạo, tình yêu lịch sử nước nhà, trách nhiệm của văn nghệ sĩ và thông điệp nhắn gửi. Nếu được khai thác tốt, thành công của thể loại này sẽ góp phần quảng bá và vun bồi tình yêu sử Việt.