Có một câu chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi. Đó là khi tôi vừa vào lớp 7.
Mỗi ngày tôi vẫn thấy ông lão tấp chiếc xuồng vào cái bến bên cạnh nhà tôi . Sau khi buộc chiếc xuồng vào cây bần sát mé sông thì ông khập khiễng lần dò từng bước đi về phía chợ. Tụi con nít ở gần bến ghe thì ngày nào cũng đợi ông lão tới, thấy ổng là chúng nó la toáng lên: “Lão què tới tụi bây ơi!”. “Độc nhãn long tới tụi bây ơi! “Nghe tiếng một đứa, hàng chục đứa khác trong nhà lại đổ ra đi theo ông lão và la lối, bình phẩm làm xôn xao một góc xóm. Đứa thì đang bưng chén cơm, đứa cầm củ khoai lang, có đứa mắt vẫn còn dính ghèn cũng loi nhoi nhập bọn. Chúng theo sau ông lão nhái cái dáng tật nguyền của ông. Mắt ông lão chỉ còn một con bên trái, từ hốc mắt đỏ lườm một màu nhờn nhợt khiến chẳng ai dám nhìn vào đó lâu. Chân ông thì xục xịch từng bước.
Bọn trẻ nhái tướng đi của ông lão rồi cười hí hả cho đến khi nào mấy bà mẹ đang lựa cá trên bến thấy và cầm rổ rượt mấy đứa tôi về. Việc trêu chọc ông lão khổ sở ấy như thói quen của bọn con nít xóm tôi mỗi sáng. Mà cũng ngộ, lần nào chúng tôi trêu ông, ông vẫn không bày tỏ thái độ tức giận mà chỉ mỉm cười, lắc đầu và tiếp tục đi. Chúng tôi không nghe được giọng ông lão. Có lẽ đó là một ông già câm?
Một bữa, tụi con nít kéo nhau đi chặt dừa nước thì thằng Tính đề nghị.
- Mình kiếm cái gì mới chọc ông già què đi anh Nam. Chứ nhái tướng đi của ông hoài, chán quá!
Câu nói của thằng Tính làm một “đại ca” như tôi bối rối. Còn trò gì nữa bây giờ? Đã có lần má bắt gặp tôi nhái tướng đi của ông già và tôi đã có một trận đòn. Đến bây giờ tôi vẫn còn “ngán” và không dám một lần nhập bọn cùng “tụi đàn em” mỗi sáng nữa, dù tôi vẫn là một quân sư quạt mo, một “thủ lĩnh” cho mấy trò nghịch ngợm của bọn trẻ con.
- Hay là chế bài hát nào đó đi anh Nam. Bữa Trung thu em thấy anh có biểu diễn văn nghệ mà! -Thằng Linh gợi ý.
- Nhưng tao đâu phải là nhạc sĩ muốn có là có - Tôi bực bội bổ mạnh trái dừa nước làm bùn bắn tung tóe.
- Hay một bài gì đó tương tự cũng được... - Thằng Linh cố kèo nài.
- Ừ. Để tao suy nghĩ - Tôi ậm ừ rồi lấy miếng cơm dừa nước đưa vào miệng nhai ngoàm ngoạm. Mấy đứa kia thì chọn cho mình một bụi dừa nước rồi ngồi tréo ngoảy trong đó.
- Ra rồi. Tụi mày biết bài “Dung dăng dung dẻ” hôn? Tao sẽ sáng tác một bài tương tự như thế. Mà tụi bây phải thề là không nói cho ai biết tao là tác giả -Trận đòn lần trước của má làm tôi phải giao hẹn với chúng.
- Đồng ý! Đồng ý!
- Đứa nào để lộ là bà bắn, rắn hổ mang cắn!
-Em thề là nếu nói ra ba em đi ghe bị chết chìm!
Tụi nó lần lượt thay nhau thề những câu “độc” để đổi lấy sự sáng tạo của tôi. Sáng hôm sau, trong khi tôi còn rúc mình trong cái mền thì ngoài bến ghe bọn nhỏ đã nghêu ngao bài đồng dao tôi vừa “sáng tác” hôm qua.
“ Lão mù í a
Lão què í a
Đi đường xa
Coi chừng té
Dưới hàng me!
.....”
Má tôi chạy thình thịch vào buồng, tốc mùng tôi hỏi:
- Lại con bày trò nữa hả?
- Đâu có. Con đâu biết gì. Má không thấy lâu rồi con đâu chơi với tụi nó nữa! - Tôi cố gắng trấn tỉnh để tỏ ra bình thường. Má tôi lẳng lặng đi ra khỏi buồng sau câu thanh minh có vẻ hợp lý hợp tình của tôi. Chẳng có một chứng cứ nào để má bắt tội tôi được hết. Hôm qua tụi kia đã thề độc hết rồi. Tôi yên tâm trùm mền nằm “nướng”, mặc cho tụi kia lao nhao bài ca ngoài bến.
Bẳng đi nhiều năm. Tôi vào cấp ba rồi vào đại học, ra trường đi làm. Cuộc sống nơi thành thị quay tôi trong những bức tường, máy lạnh và bụi đường ngoài phố. Bạn bè ngày xưa giờ thì đi muôn nẻo. Đứa tha phương tận Tây Nguyên, đứa lấy chồng nước ngoài, đứa tù tội... Mọi ký ức dường như cũng ngủ vùi như thói quen hồi nhỏ còn bên cha mẹ. Thỉnh thoảng tôi về nhà một hai ngày rồi tôi lại quay về với công việc. Đi ngay bến sông cũ chỉ thấy kỷ niệm chập chờn ẩn hiện rồi mất hút. Mọi thứ đang nằm yên trên chiếc kệ thời gian và cuộc sống đang trôi.
Chủ nhật tuần rồi tôi về nhà chơi. Cha bảo tôi lấy xe đưa ông đi đám giỗ. Gần cả năm sau ngày tôi mua xe mới được ông kêu chở đi một đoạn đường xa như vậy. Băng qua mấy con đường đất đỏ mịt mù, thêm mấy lần phà thì cha và tôi tấp vào một cái nhà nhỏ ven đường. Căn nhà lá cũ nát. Sang trọng nhất có lẽ là chiếc thạp đặt trước cửa nhà để hứng nước mưa. Trong nhà, có rất nhiều người, có cả thầy hiệu trưởng của tôi hồi cấp ba nữa. Có hai chiếc xe du lịch bảng số Sài Gòn đậu trước cửa khiến tôi chắc rằng con cháu người này giàu lắm. Nhưng sao họ để cha mẹ mình ở căn nhà xập xệ thế này? Tôi giật mình khi nhìn thấy tấm ảnh trên bàn thờ: lão què! Ông già trong tấm ảnh khác hơn chút đỉnh so với ký ức của tôi lúc còn nhỏ nhưng tôi nhận ra ngay vì ông chỉ có một con mắt. Con mắt ấy như nhìn thẳng vào tôi vậy. Tôi không có cảm giác sợ hãi như ngày nào. Ánh mắt dung dị, hiền hòa. Cha giới thiệu bạn bè của mình cho tôi biết: Có người đang là cán bộ, cũng có người là nông dân nhưng tất cả đều là học trò của thầy Tâm - người đàn ông què mà chúng tôi thường bày trò trêu lúc nhỏ. Trong khi đợi dọn mâm lên cúng thầy thì cha tôi và bạn bè ôn lại những câu chuyện của cuộc đời. Từng người một kể về kỷ niệm đã qua cùng thầy Tâm. Một nỗi hối hận tự dưng trào lên cổ tôi khi cha tôi nhắc lại chuyện của mình. Ngày đó cách đây mấy chục năm...
***
Mùa hè năm 1967, chiến dịch Gian-xơn-City đang thời điểm ác liệt nhất. Máy bay Mỹ bắn phá mỗi ngày lên cái xóm nghèo quê nội tôi. Hôm đó, cha tôi và ông nội đang lùa trâu trên đồng thì máy bay ập đến. Giữa đồng trống không thể nấp vào đâu nên ông tôi quơ quơ cái nón lá ra hiệu cho mấy chiếc trực thăng mình chỉ là thường dân. Vậy mà máy bay vẫn bắn. Một loạt đạn xuyên lồng ngực làm ông tôi ngã gục. Cha tôi hốt hoảng té từ lưng trâu xuống ruộng, kêu cứu vang trời nhưng chẳng ai trong xóm dám ra. Máy bay vẫn bắn vào đàn trâu trong sự hoảng loạn của cha tôi. Bỗng một người đàn ông từ mé rạch bò lên kéo lê cha tôi đi bò dọc bờ ruộng, rồi băng đồng lúa cõng ông về-đó là thầy Tâm. Thầy Tâm lúc đó đã có một con mắt hỏng đi vì đạn. Thầy về quê làm ruộng và dạy học cho bọn trẻ ở xóm trong một ngôi chùa cũ. Đó là ước mơ của thầy khi còn đi học, nhưng đành gác lại vì bị chế độ Ngụy quyền bắt lính trong thời điểm ác liệt của cuộc chiến tranh Việt Nam . Băng qua mấy đám tre rồi mà đạn rocket vẫn lởn vởn trên đầu. Thầy Tâm cõng cha tôi vào chùa để trú dưới cái hầm mà thầy đào cho học trò tránh bom. Máy bay lại ập tới. Một quả đạn bắn nát chân thầy khi thầy vừa đẩy cha tôi vào được cửa hầm. Bà nội tôi đang ở cữ chú Út nghe tin dữ tất tả đi tìm chồng tìm con cùng mấy người hàng xóm. Dưới đống đổ nát của ngôi chùa, thầy Tâm đang thoi thóp bên cạnh cha tôi mặt không còn giọt máu vì sợ!
Câu chuyện đứt quãng khi có tiếng gọi vọng từ một nhà bên cạnh
- Qua phụ dọn đồ cúng thầy mấy ông ơi!
Mấy người đàn ông rời bàn và đi qua căn nhà kế bên. Đó là nhà hàng xóm của thầy Tâm. Không gia đình nên khi thầy qua đời học trò phải mượn nhà láng giềng để làm giỗ cho thầy hàng năm. Căn nhà thầy ở vắng hoe. Chỉ một bộ ván lốm đốm mốc meo như dấu tích còn sót lại của một đời người khốn khổ. Trên bàn thờ khói nhang vẫn nghi ngút nhưng không biết ngày mai cũng vậy hay chỉ ấm áp trong ngày nay. Tấm ảnh chỉ với một con mắt vẫn chằm chằm nhìn vào tôi như sợi dây nối liền không gian thời gian.Tôi chợt thấy lòng trĩu nặng. Có cái gì đó giữa hiện tại và quá khứ đang cào xé tôi.Tôi hối lỗi và cũng đầy xót xa thương cảm. Không khí buổi giỗ rôm rả bạn bè xưa hội ngộ nhưng sao tôi thấy mình lạc lõng. Ở đây tôi là người nhỏ nhất, người chưa biết gì nhiều về một ông thầy què phải chết một mình giữa căn nhà cô độc. Cũng có thể bài đồng dao với lời trêu chọc mười năm về trước vẫn còn ray rứt tâm hồn tôi. Một ký ức tinh nghịch thời trẻ con đã trở thành một ký ức buồn.