Cùng với cả nước, TP Cần Thơ bước vào giai đoạn chuyển dịch trọng tâm từ bảo hộ sang khai thác và thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), phù hợp với xu thế toàn cầu hóa tri thức và chuyển đổi số. Tuy vậy, hoạt động khai thác và thương mại hóa sáng chế vẫn đối mặt với những hạn chế như khung pháp lý chưa hoàn thiện, thủ tục hành chính phức tạp, tình trạng xâm phạm quyền còn diễn ra phổ biến...
Những nút thắt cần tháo gỡ
Theo thống kê của Sở Khoa học và Công nghệ TP Cần Thơ, đến nay, thành phố có gần 11.190 đơn đăng ký sở hữu công nghiệp và có 7.375 văn bằng được cấp, bao gồm: nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích. Riêng sáng chế chỉ có 30 văn bằng được cấp.

Hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về khai thác và thương mại hóa sáng chế được Sở Khoa học và Công nghệ TP Cần Thơ thường xuyên tổ chức.
Trên thực tế, số lượng sáng chế, giải pháp hữu ích được chuyển giao, ứng dụng hoặc thương mại hóa đưa vào sản xuất và đời sống thực tế vẫn còn hạn chế. Nhiều kết quả nghiên cứu quý giá chỉ dừng ở mức thử nghiệm, chưa chuyển hóa thành sản phẩm cụ thể hay tạo ra giá trị kinh tế, chưa khai thác hết tiềm năng và sáng tạo của các nhà khoa học, giảng viên và tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích trên địa bàn thành phố.
Luật sư Phan Vũ Tuấn, Phó Chủ tịch Hội SHTT Việt Nam, nhận định: Hoạt động khai thác và thương mại hóa sáng chế đang vướng ở cả 3 khía cạnh: pháp lý, tài chính và thị trường. Ở khía cạnh pháp lý, Việt Nam đang thiếu bộ tiêu chí, hướng dẫn cụ thể về việc thẩm định giá đối với sáng chế; chưa xây dựng đồng bộ hành lang pháp lý liên quan đến việc giao dịch, góp vốn, áp dụng biện pháp bảo đảm (bảo lãnh, thế chấp) và chế độ bảo hiểm đối với tài sản trí tuệ, sáng chế. Về tài chính, đó là sự thiếu hụt vốn giai đoạn “từ nghiên cứu sang ứng dụng” dẫn đến quá trình thương mại hóa các sáng chế gặp nhiều khó khăn. Phần lớn kinh phí của Nhà nước chỉ hỗ trợ trong giai đoạn nghiên cứu, còn các bước thử nghiệm, hoàn thiện và thương mại hóa đối với sáng chế ở giai đoạn đầu ra chưa có cơ chế tài trợ tương xứng. Ở khía cạnh thị trường, nhiều sáng chế được nghiên cứu nhưng không có tính ứng dụng do việc vận hành tốn quá nhiều chi phí hoặc chưa giải quyết được nhu cầu của thị trường; thiếu hạ tầng để thúc đẩy hoạt động sàn giao dịch tài sản trí tuệ trong nước…
Nhiều ý kiến cho rằng, hiện nay, vẫn còn một bộ phận nhà khoa học coi trọng việc công bố bài báo quốc tế hơn là đăng ký và thương mại hóa sáng chế. Ngược lại, nhiều doanh nghiệp vẫn còn e ngại, chưa tin tưởng vào công nghệ phát triển trong nước. Các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công (sáng chế tạo ra từ ngân sách nhà nước) đôi khi còn phức tạp, gây chậm trễ trong việc ra quyết định thương mại hóa. Ngoài ra, hiện Việt Nam vẫn thiếu hụt đội ngũ chuyên gia có đủ cả kiến thức về công nghệ, pháp lý, kinh doanh và kỹ năng đàm phán để vận hành hiệu quả một Văn phòng Quản lý SHTT và Chuyển giao công nghệ (TTO) chuyên nghiệp.
Khai thác và thương mại hóa đúng hướng
Theo ông Phạm Trường Giang, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP Cần Thơ, Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mục tiêu đến năm 2030, số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế mỗi năm tăng 16-18% và tỷ lệ sáng chế được khai thác thương mại đạt 8-10%. Để đạt được mục tiêu này, vai trò của các tác giả sáng chế và giải pháp hữu ích là vô cùng quan trọng. Mỗi ý tưởng, mỗi công trình nghiên cứu nếu được bảo hộ, chuyển giao và khai thác đúng hướng sẽ góp phần trực tiếp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, từ đó tạo ra giá trị thực sự cho xã hội.
Luật sư Phan Vũ Tuấn cho rằng, chính sách tài trợ của Nhà nước nên tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhà phát minh độc lập, thông qua hệ thống tiêu chí, yêu cầu nghiêng về tính ứng dụng, nhằm mục tiêu kinh tế, hơn là chỉ chú trọng vào tính khoa học. Ở góc độ thị trường, doanh nghiệp nên được trao cơ hội đóng vai trò dẫn dắt, định hướng cho hoạt động thương mại hóa các sáng chế của nhà trường theo chương trình tài trợ, được cấp kinh phí từ Nhà nước. Doanh nghiệp, nhà phát minh độc lập cần có sự hợp tác ở quy mô liên ngành, liên lĩnh vực, để tập trung nguồn lực, chủ động được thị trường và góp phần tạo nên hệ sinh thái khai thác và thương mại hóa SHTT bền vững.
Từ thực tiễn khai thác và thương mại hóa sáng chế, PGS. TS Lê Nguyễn Đoan Khôi, Trưởng Phòng Khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Đại học Cần Thơ, chia sẻ: “Chúng ta phải coi SHTT và thương mại hóa là một nhiệm vụ trọng tâm, được thể hiện trong chiến lược phát triển của trường và trong các chính sách thi đua, khen thưởng. Cùng với đó, chính sách phân chia lợi ích cần rõ ràng, công bằng và hấp dẫn, chẳng hạn, tác giả hưởng 70-80% nguồn thu sau khi trừ chi phí sẽ là động lực lớn nhất để khuyến khích các nhà khoa học". Theo PGS. TS Lê Nguyễn Đoan Khôi, không có một mô hình nào phù hợp cho mọi sáng chế, do đó cần phải linh hoạt lựa chọn giữa bán, cấp phép, góp vốn, hay spin - off tùy thuộc vào đặc thù công nghệ và bối cảnh thị trường. Nhà trường cần trích một phần ngân sách hoặc kêu gọi các nguồn quỹ để hỗ trợ các dự án hoàn thiện công nghệ, tạo ra các sản phẩm mẫu (prototype) để trình diễn cho doanh nghiệp thẩm định, trải nghiệm.
Có thể thấy, thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng để thương mại hóa sáng chế không chỉ là vấn đề trình độ khoa học - kỹ thuật, mà còn là vấn đề quy trình, hệ thống, cần sự chung tay hợp sức của các cơ quan, tổ chức, trường viện và các doanh nghiệp. Chỉ khi chuỗi nghiên cứu - bảo hộ - thương mại hóa - tái đầu tư được khép kín, các sáng chế mới thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo quốc gia.
Bài, ảnh: MỸ THANH