05/03/2011 - 20:31

Truyện ngắn: HỒNG SA

Câu chuyện "nhà Bần"

Chiến tranh đã qua hơn ba mươi năm. Trên đất nước ta, những hố bom B52 và những vết thương khác trên mọi nơi dần dần được san bằng. Cuộc sống trở lại bình thường trong niềm vui chiến thắng, trong lao động hòa bình. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn của nhiều người, vết thương vẫn còn rỉ máu. Những giọt nước mắt muộn màng vẫn còn lặng lẽ tuôn trào. Đã bao lần, tôi đã khóc vì những giọt nước mắt ấy của nhiều người là nạn nhân của chiến tranh. Và hôm nay, tôi viết về những giọt nước mắt của bà tôi, trong những ngày giỗ của bà!

* * *

Sau ngày hòa bình, ngoại tôi thường hay khóc! Trong những ngày lễ lớn, bà khóc càng nhiều! Bà khóc âm thầm không làm ảnh hưởng tới ai, mặc dù quanh bà toàn là con cháu. Tôi thường xuyên gần gũi chăm sóc bà nên thường gặp những giọt nước mắt của bà chảy dài trên má. Tôi lau nước mắt cho bà. Nhiều khi tôi hỏi thì bà gượng cười, đổ thừa tại gió, tại bụi, rồi lảng sang chuyện khác. Tôi không dám động đến những nỗi đau của bà nên mỗi lần như vậy, tôi chỉ vuốt lưng bà, mong bà được vơi đi vài nỗi ưu tư, rồi tránh đi nơi khác, để cho những giọt nước mắt của bà được chảy xuôi theo dòng những điều phiền lụy. Có những đêm, bà ngồi trước cửa, ngó ra bờ sông. Tôi không nhìn thấy những giọt nước mắt của bà, nhưng qua ánh chớp, tôi đọc được đôi điều về tâm tư của bà khi thấy bà ngồi chống tay lên má, nhìn về phía chân trời như đợi chờ ai! Có những lần bà đốt mấy nén nhang cắm gần bên cạnh. Lắm khi nhang đã tàn rồi mà bà vẫn còn ngồi đó, im lặng, quên cả thời gian. Một lần, khi tôi nhắc bà đi ngủ, bà nói như để làm giảm bớt sự dồn nén trong lòng:

- Phải chi giờ này, “nó” trở về!

Hay:

- Trời tối như vầy, thuận lợi cho mấy đứa đặc công!

- Mưa gió quá chừng, mấy đứa nhỏ qua sông sao được!...

Nếu một người lạ nghe được những lời này thì có thể họ cho rằng bà đang lẩm cẩm. Còn tôi thì không! Từ khi lớn lên, tôi đã nghe bà con ở địa phương kể nhiều chuyện về bà tôi, nên tôi biết bà tôi không lẩm cẩm một chút nào. Những câu nói ấy gắn liền với một thời quá khứ mà thời gian chưa kịp xóa nhòa trong tâm trí!

* * *

Bà con kể lại rằng: Hồi thời xưa, ở rạch Cây Bần quê tôi, có một xóm nhà gồm toàn dân tứ xứ đến cư trú rồi ở luôn lại đó tìm kế sinh nhai. Thẻo đất này do phù sa bồi đắp, không thuộc quyền sở hữu của ai nên không ai tranh chấp. Những người ngụ cư coi đây là mảnh đất lành để chim trời về đậu. Họ tìm miếng cơm manh áo trên dòng nước sông Tiền. Quý hơn cả là họ tìm được sự đùm bọc, chở che của dân trong làng và xây dựng được mối tình bằng hữu giữa những người tha phương cầu thực, canh cánh bên lòng nỗi niềm tứ cố vô thân.

Đầu vàm có hai căn nhà lá đối diện nhau ở hai bờ con rạch. Đó là nhà của ông Năm Vui và ông Hai Thế. Hai gia đình này hằng ngày qua lại với nhau nhờ một cây cầu khỉ. Cây cầu ọp ẹp, lắc lư đã quăng nhiều người xuống nước! Nhưng trở ngại đó chẳng ngăn được mối quan hệ của hai gia đình. Họ đến với nhau thường xuyên trong công việc làm ăn và trong những giờ rỗi rãi. Nam và Tú, hai thành viên của hai hộ nghèo cùng một hoàn cảnh, cùng một lứa tuổi, họ dễ thân nhau rồi yêu nhau không biết lúc nào...

Hôm ấy, trời vừa tạnh mưa nên cầu trơn trợt. Tú cầm một xâu cá, dò từng bước trên cầu. Nam từ ruộng về, tay bưng một rổ bông điên điển, không nhìn trước, nhìn sau, ào ạt nhảy lên cầu, định đem sang tặng cho gia đình Tú. Bỗng thấy Tú đang lúng ta lúng túng ở nhịp bên kia, Nam dừng lại để nhường bước, nhưng muộn mất rồi! Khúc tre dưới chân chuyển mình, chiếc tay gượng tuột dây, Tú chới với rồi rơi xuống nước! Nam buông chiếc rổ, nhảy theo, cầm tay Tú đưa vào bờ. Đến chỗ cạn rồi mà người cứu nạn chẳng muốn buông tay ra và người bị nạn chưa vội rút tay về.

Từ hôm đó, “tình trong như đã” mà mặt ngoài cũng “đã” luôn. Một mối tình đã được hình thành và được cả xóm ủng hộ. Hai gia đình đều rất hài lòng về cô dâu và chú rể tương lai của mình, chờ cho thời gian thật chín muồi hai trẻ nên vợ thành chồng. Người trong xóm nói vui: Hai gia đình rất “môn đăng hộ đối”: “nghèo rớt mồng tơi” như nhau, có nhà mà không có cửa như nhau, cùng thuộc vào loại trôi dạt giang hồ. Nam là một thanh niên rất khỏe mạnh, siêng năng, tháo vát, dễ gần. Tú là một cô gái bình dị, xinh xắn có duyên. Rồi họ cưới nhau trong niềm vui chung của cả xóm làng. Một đứa con trai ra đời mang tên là Nguyễn Văn Bần. Họ nhà “Bần” chính là ông bà cố, ông bà ngoại rồi đến ba má tôi đó.

* * *

Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn càng xa. Vậy là cố tôi được các vị “tai mắt” trong vùng chú ý có một tay tề muốn làm rể xóm Cây Bần mà không được nên đem lòng thù hận, quyết “ăn không được thì phá cho hôi”. Hắn cấu kết với nhau ngấm ngầm điều tra và tìm được một số manh mối chứng tỏ cố tôi có tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở khu vực Mỹ Tho, rồi bỏ xứ khi cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Chúng bắt trói ông cố tôi lại và đánh đập tàn nhẫn. Cả nhà kêu khóc. Hàng xóm cũng rơi nước mắt. Chỉ có bà ngoại tôi là cắn răng nín lặng. Sau này, bà tôi nói:

- Phải để dành nước mắt để nhớ mà trả thù! Không nên khóc trước kẻ thù cho chúng thấy cái yếu của mình!

Qua sự cố này, xóm Cây Bần bàn tán về những người Cộng sản nổi dậy chống Tây đòi độc lập. Rồi có nhiều người bị giết, bị tù đày, nhiều người lẫn tránh vào Đồng Tháp, xuống U Minh.

Cố tôi đi rồi, mất tích luôn! Ngoại tôi đau lòng lắm, lầm lì, ít nói. Mọi nỗi xót xa, mọi điều toan tính đều dồn nén trong lòng. Xóm giềng ai cũng thương gia đình tôi, nhưng ít ai lui tới. Cây cầu khỉ không còn thường xuyên kẽo kẹt như xưa.

* * *

Ông bà ngoại tôi nuôi mẹ, nuôi con và lặng lẽ nuôi chí căm thù. Khi Cách mạng Tháng Tám bùng lên, ông bà tham gia cướp chính quyền ở địa phương, tích cực góp sức xây dựng lực lượng du kích và các đoàn thể. Khi giặc Pháp trở lại cướp nước ta lần thứ hai, ông ngoại tôi gia nhập lực lượng võ trang của tỉnh.

Buổi tiễn đưa hôm ấy, trời đã hoàng hôn. Mưa bay lất phất. Bà tôi, một tay ẵm ba tôi, một tay cầm chiếc nóp đưa cho ông tôi, miệng nói nhỏ gởi gắm niềm tin và cả tâm tình. Ông tôi ôm ba tôi vào lòng, dặn dò mấy câu, rồi đưa lại cho bà tôi. Ông tôi đưa lại chiếc nóp cho bà tôi, nói:

- Em giữ lại cho thằng Bần! Ngày nào nó khôn lớn, em động viên nó đi theo con đường chiến đấu của anh. Ở nhà, em cũng tiếp tục tham gia công tác. Anh sẽ về trong ngày thắng lợi!

Ông tôi đi rồi, bà tôi sống trong lo lắng, đợi chờ, lấy công việc làm nguồn an ủi! Bà tham gia hoạt động đoàn thể, đồng thời cũng chiến đấu du kích trong các cuộc chống càn. Nhà nào trong xóm cũng bị giặc đốt mỗi năm vài lần. Thời gian đầu cũng nặng nề, nhưng ở quê tôi càng nặng nề hơn vì là vùng du kích. Dân xóm Cây Bần hết biết sợ nghèo vì nghèo đã thành người bạn đồng hành truyền kiếp. Ngọn lửa đấu tranh đã rèn luyện mọi người. Tình thôn xóm đã vượt qua cái mức thông thường “tối lửa, tắt đèn”. Những chiếc khăn tang nối lại càng dài trong quá trình chiến đấu đã siết chặt tình cảm của những người khác họ mà chung lòng. Tôi vốn là một đứa cháu nuôi. Ba ruột tôi là một du kích dũng cảm trong xóm. Trong một cuộc chống càn, ba tôi đã hy sinh, lúc tôi chưa giáp thôi nôi. Mẹ tôi bị bệnh thường xuyên. Ngoại tôi đem mẹ tôi về nuôi. Bà đặt tên tôi là Nguyễn Thị Bần. Để phân biệt, bà con gọi cậu tôi là Bần Tùa, còn tôi là Bần Nhí!

Không phải tự nhiên mà người ta đặt cho cậu tôi cái tên là “Tùa”. Ai cũng nói cậu giống ông ngoại tôi như đúc. Mới hơn mười tuổi mà cậu cao to, đi lại đùng đùng trên đường. Cậu không khi nào đi hết cây cầu khỉ: mỗi khi qua cầu, khi còn mấy bước là cậu nhảy tót lên bờ! Nhưng cũng có nhiều lần cậu nhảy tuốt... xuống rạch.

Cậu Bần là niềm hy vọng lớn lao của bà tôi. Bà cưng cậu nhưng không nuông chiều. Bà mong cậu mau lớn. Khi cậu Bần chưa đầy mười sáu tuổi, có một đơn vị bộ đội đặc công về hoạt động tại địa phương. Cậu Bần xin tòng quân. Một buổi sáng, bà gọi cậu tôi trao cho một cái nóp, dặn dò:

- Má đồng ý cho con đi! Đây không phải là chiếc nóp của ba con ngày trước, nó cháy mất rồi! Nhưng chiếc nóp nầy cũng mang ý nguyện của ba con. Giờ thì con đi đánh Mỹ. Ráng làm tròn nhiệm vụ. Má chờ con ngày thắng lợi trở về...

Giọng ngoại tôi hơi run nhưng ngoại không khóc. Có lẽ ngoại cũng sợ nước mắt sẽ làm mềm lòng cậu Bần. Bà tôi cũng như biết bao bà mẹ đã dũng cảm đưa con mình vào nơi lửa đạn, miệng vẫn cười mà lòng rất xót xa.

* * *

Ngoại tôi không phải là một người mềm yếu! Vậy sao bây giờ, ngoại lại hay khóc?

Ngoại khóc nhiều nhất là sau ngày hòa bình, một người bạn của cậu tôi về báo tin là cậu tôi mất tích trên đường Trường Sơn khi cùng đơn vị đưa một đoàn cán bộ đi ra miền Bắc. Suối bị lũ. Cậu tôi bị dòng nước cuốn đi. Từ đó không có tin tức gì về cậu Bần nữa. Bà tôi vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó, cậu tôi trở về. Bà vẫn hy vọng...

Bà tôi vẫn thường khóc. Khóc nỗi riêng mình và khóc cho những người bất hạnh trong chiến tranh. Những giọt nước mắt muộn màng xuất phát từ cái “hồ lệ” trong lòng bị kiềm chế từ lâu, khi có dịp tuôn rơi thì càng chảy mạnh! Tới một ngày, trên giường bệnh, khi hấp hối, bà tôi muốn nhìn tấm ảnh của cậu Bần lần cuối cùng. Bà cố mở to đôi mắt để thu hình ảnh của cậu tôi. Và hai dòng nước mắt cứ trào tuôn! Đây là những giọt nước mắt cuối cùng của ngoại tôi! Và lần cuối cùng, tôi lau nước mắt cho ngoại.

Trong chiến tranh, biết bao người có những nỗi đau mà không được khóc, không kịp khóc, hoặc khóc chưa hết cho những điều chua xót của mình. Nhiều thế hệ sau hòa bình và cả sau này không bị chiến tranh gây ra uất hận, nhưng khi tìm về quá khứ, vẫn có biết bao người còn rơi nước mắt. Họ khóc vì thông cảm với những nỗi đau mà những người đi trước phải gánh chịu để đất nước này được độc lập, tự do. Hãy để cho họ khóc.

Chia sẻ bài viết