25/12/2010 - 21:16

Truyện ngắn: NHẬT HỒNG

Cánh sếu mùa luân lạc

Phực! Âm thanh khô khốc dứt khoát, phát ra từ cây phảng cắm xuống mô cỏ năn lút gần tới cán giữa nắng trưa hừng hực. Tay nâng cây phảng lên, chú Bảy Thời nhướng nhướng con mắt ra xem, nâng lên hạ xuống cây phảng thử coi nặng nhẹ. Rất vừa tay. Năm mười bốn tuổi chú đã cầm phảng vào tay rồi và đã từng tung hoành ngang dọc với đám sen, súng, năn, lác trên cánh đồng này. “Nay phải cần tới mày!” Chú Bảy nói như vậy!

Thím Bảy nói với theo: “Ông đi hả? Chừng nào dìa”. “Không biết!”.

Những người nông dân tụ tập trên bờ kinh lần lượt hạ trại làm nơi ngủ nghỉ. Mỗi người chuẩn bị sẵn những thứ cần thiết như: Gạo, muối, củi, lò dự phòng ăn ở lâu ngày.

Chú Bảy Thời được bà con tín nhiệm bởi chú nói và làm đi đôi, gặp gian nan không ngại, tử sinh không lùi bước, một lòng một dạ sống chết với anh em. Ai cũng biết chú trong thời kỳ đấu tranh chống Mỹ. Lúc ấy, chú là du kích ở đây, vào mùa nước chỉ có cây sào và chiếc xuồng cui cộng với sự hiểu biết dày dặn về địa hình, mưa nắng mà chú đã mưu trí đánh chống càn biết bao trận.

Bữa cơm chiều giữa đồng mông quạnh cảm thấy ngon miệng với nhóm người các nơi mới gom về. Có người nhâm nhi ly rượu đế với cá thác lác nướng trui, nhìn dòng kinh đóng phèn sóng sánh, nói: ngày mai nhậu với cá bông nấu cháo nghen! Người khác chen vào: còn tôi đãi quý vị món lươn um. Nghề của tôi mà! Khi xưa, đến mùa nước chỉ một xuồng trúm là đủ nuôi một vợ ba con, mùa khô chỉ cây chĩa hai mũi và chiếc giỏ tre đi lang thang trên đồng, khi về gánh đầy giỏ rắn, rùa, lươn, cá...

Chú Bảy Thời hạ ly rượu xuống, nói:

- Ta ở đây khiêu khích đám kiểm lâm cho nó ra mặt. Ôn hòa thì nói bằng lời, bằng nguyện vọng, còn căng thẳng thì ta chia nhau nhiều nhóm “chơi” luôn. “Trâu già đâu nệ dao phay”. Có hơi men lời của chú Bảy như mệnh lệnh với đám người ngồi trong trại. Chú tiếp:

- Tôi sinh ra và lớn lên ở cánh đồng này, ba đời làm nông dân, gia đình tôi đã từng đói khát vào những năm bốn lăm, bốn bảy ở thế kỷ trước. Tiết trời tháng mười một lạnh buốt, bảy tám giờ sáng mà còn run cầm cập. Ba tôi nuôi tám đứa con nheo nhóc bằng cá đồng và lúa trời. Cứ mỗi sáng sớm ông bước xuống chiếc xuồng cui, có hai tấm rèm đóng bằng nẹp tre dựng lên ở giữa xuồng lắc lư dưới mưa nắng, ngang dọc vào đám lúa trời bạt ngàn, khi chiều về má tôi hốt vét lên được cả giạ, có bữa trúng non hai giạ, cho mười cái miệng nhai lắt lẻo qua ngày. Nghĩ cũng ngộ, lúc ấy nông dân đói thường vào những tháng giáp hạt, tức là từ tháng mười một, tháng chạp, khi đó lúa trời ở đây cũng vừa chín tới đầy trên đồng. Gọi là lúa trời thật là đúng nghĩa của nó: không ai gieo, chăm sóc mà vẫn tươi tốt, không bao giờ chết nước, nước dâng lên bao nhiêu thì nó vươn lên tới đó. Mà chừng như lúa này chỉ đãi ngộ cho dân nghèo. Ngộ một cái là nó không chín một lượt, một bông chỉ chín năm bảy hột, ngày sau chín tiếp. Người đi trước dùng cây sào đập: “Xạch! Xạch!”Hạt lúa rơi vào xuồng chừng nửa nắm. Người đi sau cũng dùng thế như vậy! Chính vì nhờ cái tính chất chín lơi rơi mà giúp cho dân nghèo, chớ như nó chín một lượt thì người có thế lực nhào vô cắt vài ngày là ráo trọi, còn đâu cho dân nghèo nuôi bữa.

Ngót hai mươi ngày êm đềm trôi qua giữa cánh rừng Tràm Chim, nhóm người tụ tập trên bờ bắt cá dưới kinh lên ăn, nhậu cũng chán. Bước thêm một bước nữa: “Hành động”. Lớp đất cỏ năn sau nhiều năm không ai động đậy, nay bật tung lên dưới những lưỡi cày sắt bén. Một vòng thử nghiệm coi có gì phản ứng hay không? Không! Nhóm người bên bờ kinh tiếp tục “khai hoang” đồng năn. Chim cò thấy vật lạ chạy ầm ì hoảng loạn bay kêu oang oác.

Chú Bảy Thời đang ngủ trưa bỗng giật mình bởi có tiếng vật lạ bay qua đầu và tiếng kêu lí nhí gọi bầy nghe quen thuộc. Chú vội mở mắt ra thấy trên đầu một đám mây trắng toát xà xuống thật gần, gần lắm! Đám mây hiện thân từ khoảng trời bao la xanh ngắt, quần tụ lại chập chờn trên đầu. Chú Bảy căng đôi mắt mở to không dám nháy sợ phí một giây khắc quý hiếm này, cả đời người gần xuống lỗ rồi mới được chứng kiến tận mắt. Đám mây trắng như bông lần lượt tách ra từng cánh lẻ. Có những cánh như chiếc lá rơi chao qua chao lại rồi cắm phịch xuống đất. Có cánh lượn lờ đôi vòng rồi nhẹ nhàng đáp xuống. Có những cánh tung tăng từ trên cao rồi buông mình xuống đất, khi vừa chạm mặt đất cánh trắng tung lên trụ lại trên không vẫy vẫy như làm dấu hiệu bình yên trên quê hương no ấm. Tất cả đã xuống đất còn lại cánh trắng muộn màng đi sau, cánh này không xà xuống ngay mà lượn nhiều vòng trên không như để quan sát tìm cái gì đó, hoặc phát hiện ra cạm bẫy và bất trắc có thể xảy ra cho cả bầy. Cái vòng lượn sau cùng cách bụi tràm nơi chú Bảy nằm chừng vài mét, trong cái khoảng cách gần gũi này chú chợt nhận ra hai cái chân xuôi về phía sau như có vẻ không bình thường. Có một chân ngắn hơn, khi vừa chạm mặt đất thì phía chân ngắn bước hơi khập khễnh.

Chú Bảy như người chập chờn bừng tĩnh trong giấc mơ: “Chẳng lẽ nó hay sao?”- Chú nói một mình. Có thật vậy hay không? Mấy mươi năm rồi...

***

Mùa khô năm một ngàn chín trăm bảy mươi tư, giặc bị đánh mạnh ở các vùng. Mặt phía Tây Sài Gòn tương đối yên vì không có những trận đánh lớn, từ căn cứ Đồng Tâm những tay cố vấn Mỹ và sĩ quan cao cấp ăn nhậu ở Sài Gòn chán ngán nên xách trực thăng về Đồng Tháp săn chim. Loài chim mà chúng săn tìm là sếu đầu đỏ. Lúc ấy, ở cánh đồng này hàng năm chim sếu về đến vài ngàn con, trắng lớp cánh đồng. Bọn Mỹ – Ngụy hạ trực thăng bất ngờ xuống, dùng sức gió cánh quạt trấn áp làm tê liệt cánh chim sếu rồi chúng nhảy xuống bắt sống. Điều nghiên và nghiên cứu địa hình kỹ lưỡng, chú Bảy lau chùi chỉnh lại cây súng trường K1, chọn điểm phục kích. Một tuần đi qua ăn không ngồi rồi. Tuần thứ hai vài chiếc trực thăng quần đảo trên đầu đám sếu rồi mất hút trên nền trời. Có ý kiến cho chú “làm láp”. Chú Bảy không nản chí vì nhớ đến cảnh những con sếu đẹp đẽ thanh thản đùa giỡn nhau bỗng dưng bị bắt mang đi, có những con kịp bay lên thì bị cánh quạt chém té nhào xuống. Những con còn lại nhìn ngơ ngác đồng loại của mình giẫy giụa một cách tuyệt vọng. Còn một điều nữa chú muốn nhắc nhở cho bọn giặc biết còn có du kích ở đây, ở trên cánh đồng này!

Đang suy nghĩ miên man, chợt có tiếng trực thăng gầm rú trên đầu, quần đảo để gom đám sếu. Chú Bảy bình tĩnh đưa mũi súng ngắm về phía mục tiêu. Một tên giặc cầm con sếu trên tay leo lên trực thăng. Chú Bảy bóp cò, hắn ngã xuống, buông con sếu ra. Con chim què quặt lã cánh chạy khập khễnh chui vào bụi rậm. Đám lính nhảy xuống kè thằng bị thương lên máy bay giãy đành đạch. Chú Bảy tiễn thêm vài phát đạn nữa chiếc trực thăng lao chao rồi mất hút lên nền trời. Chú Bảy ôm con sếu vào lòng. Mắt nó chớp chớp như muốn nói cái gì đó như “lời cảm ơn” mà không được. Rồi đôi mắt khép lại có lẽ vì cơn đau của cái chân bên trái đập gãy, chú vuốt ve bộ lông trắng mượt.

Chú Bảy ôm con sếu về cơ quan, anh em thèm thuồng:

- Con này năm bảy ký như chơi, làm thịt mười người ăn nhậu hả hê. Chú Bảy nghiêm mặt:

- Tao cấm! Không ai được đụng đến nó.

Chú Bảy cặm cụi đi kiếm trúc đương cái bội nhốt con sếu vào rồi đi tìm thuốc bó cái chân bị thương. Ngày đầu nó không ăn, nó đứng một chân cú rũ như buồn lắm! Hôm sau chú nhét cho nó được vài củ năn, mắt nó bớt sợ sệt, bớt đau. Chú Bảy ra đồng bươi xới tìm củ năn và các thứ khác mà sếu thường dùng để bồi dưỡng cho nó. Chú chăm sóc nó như chăm sóc đồng đội, cả đến ban đêm chú cũng ra soi đèn coi nó ngủ hay thức. Đến ngày thứ bảy nó để cái chân đau xuống mặt đất được đôi chút, đi cà nhắc thấy tội nghiệp.

Một buổi sáng sớm trời trong vắt không gợn một áng mây, trên đồng xa xa đàn sếu đang lui cui nhặt hạt. Chú Bảy xem con sếu trong lồng chừng đã bình phục. Chú cẩn thận giở cái bội ra ôm con sếu vào lòng vuốt nhè nhẹ lên đôi cánh nói: “Bay đi! Về với đàn. Coi chừng cảnh giác đám trực thăng đó nghen!”. Con sếu chập chập đôi cánh, liếc mắt nhìn chú như cảm ơn rồi cất mình lên không lượn hai vòng rồi biến mất trong mây.

Chú bảy uể oải đứng lên đi lừng khừng về phía lều. Đêm đó, chú bảy cứ trằn trọc mãi không ngủ được, hình ảnh của những người dân tràn vào dọc theo kinh chia cắt thành trăm ngàn miếng thịt rừng tràm, tận dụng mọi phương tiện giăng bắt các loài động vật để dùng bữa. Những cánh chim trời không nơi nương tựa, loài sếu nó sẽ về đâu? Rồi đây nó sẽ không còn trên quê hương xứ sở của mình. Còn chăng chỉ là một huyền thoại và nó âm thầm buồn bã nhìn những ngọn đèn sáp lắc lay trong những ngày tế lễ ở đình miếu.

Hôm sau, khi nốc xong vài cốc rượu, chú Bảy đứng giữa lán trại trịnh trọng nói với mọi người:

- Thưa với các anh em, cuộc đấu tranh đòi đất ở đây tôi thấy đủ lắm rồi! Phía Nhà nước cũng biết rằng: Số tiền trả hoa lợi cho ta so với giá cả bây giờ là ít ỏi, không thấm vào đâu. Nhưng nghĩ cho cùng, ta cũng đã nhận rồi, dù bằng lời hứa đi chăng nữa cũng phải tôn trọng chớ! Nhà nước trong điều kiện còn nghèo nên chưa đáp ứng được cho chúng ta hài lòng. Nhưng một việc chúng ta hài lòng là bảo tồn được cánh sếu còn tới lui với quê hương chúng ta ngay trên cánh rừng Tràm Chim Tháp Mười này. Một loài vật vô cùng quý hiếm cả thế giới đang gìn giữ. Bên cạnh đó, còn có hàng trăm loài động vật, thực vật còn tồn tại sinh sống dưới ánh nắng mặt trời. Cái nắng oi bức mà cả thế giới kêu ca: “Hiệu ứng nhà kính”. Nó lần lượt làm biến mất một số loài vật hoang dã và biến đổi luôn hệ sinh thái. Có khả năng làm thay đổi thời tiết có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và tính mạng của chúng ta.

Chú Bảy vừa nói vừa rót đầy chén rượu nâng lên ngang mày:

- Sau khi uống hết chén rượu này anh em chúng ta chia tay nhau, ai về nhà nấy!

Chú Bảy gom đồ đạc ra mô đất năn rút cây phảng lên, xuống xuồng xuôi theo dòng kinh. Trước khi về chú không quên ngoáy lại nhìn những luống cày lầm lỡ nằm trơ trọi. Xa hơn nữa phía mặt trời vừa ửng đỏ rừng như thức dậy. Bình minh đẹp tuyệt vời trên đồng Tháp Mười mà giờ này chú mới có dịp nhận ra, gần hết một đời người rồi!...

***

Chú Bảy bước vô phòng Ban giám đốc Vườn Quốc Gia Sinh Thái Tràm Chim, chợt có tiếng nói âm ấm của đàn ông vang lên:

- Chú Bảy mới tới hả? Ngồi xuống đây đi chú!

Bảy Thời lặng lẽ đưa đôi mắt buồn buồn nhìn người đàn ông tiếp chuyện với mình:

- Cháu Phiên à! Chú thấy có lỗi với cháu và anh em trong Ban giám đốc . Chú biết, vì nặng tình nghĩa với nông dân ở Tháp Mười này nên các cháu không thể ra tay trấn áp để cho bọn chú làm liều cày hàng chục héc ta đất. Cũng may cho chú là sớm nhận ra mình sai. Sớm nhận ra sự hồ đồ của mình vì một chút lợi riêng tư.

Người đàn ông cười cởi mở:

-Đâu có gì đến đỗi mà chú phải buồn vậy! Con mời chú nhấm một ngụm trà này là sẽ tỉnh táo ngay. Trà Tràm Chim đó. Cách làm chú đã biết rồi! Lựa đêm trời trăng sao tỏ rạng, không mưa, bỏ trà vào núm lá sen, lựa cọng sen đứng sững cứng cáp, ngắt một tấm lá sen khác úp lên. Đợi sáng hôm sau mặt trời mọc lấy trà ra. Trà pha với nước mù sương đọng trên lá sen giữ được hương trà, mùi vị quê hương Đồng Tháp.

Chú Bảy nâng ly trà lên, hương sen ngây ngất. Chú thấy mơ hồ như có bóng mặt trời vừa nhô lên soi rõ hình cánh sếu căng rộng che lấp dấu chân phèn đặc quánh nơi chú đã đi qua.

Chia sẻ bài viết