26/10/2023 - 11:30

“Bài học” của Úc trước sức ép kinh tế từ Trung Quốc 

Trước chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Úc Anthony Albanese, giới phân tích đánh giá việc Bắc Kinh nới lỏng các biện pháp trừng phạt thương mại nhắm vào Canberra chứng tỏ cường quốc châu Á ở mức độ nào đó không “hy sinh” kinh tế vì chính trị.

Thủ tướng Úc Albanese (trái) trong lần gặp trước đây với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Ảnh: EPA

Thủ tướng Albanese sẽ tới Trung Quốc vào ngày 4-11, trở thành nhà lãnh đạo Úc đầu tiên thăm Bắc Kinh kể từ năm 2016. Trước đó, quan chức 2 nước đã tổ chức các buổi đàm phán ngoại giao để đảm bảo chuyến thăm thành công. Ðầu tháng này, Bắc Kinh trả tự do cho một nhà báo người Úc gốc Hoa sau gần 3 năm giam giữ. Thủ tướng Albanese còn tuyên bố các bên đạt thỏa thuận mở đường cho việc nối lại xuất khẩu rượu vang Úc sang Trung Quốc.

Theo giới quan sát, quan hệ thăng trầm giữa 2 quốc gia châu Á - Thái Bình Dương là ví dụ thực tế về điều gì sẽ xảy ra khi siêu cường mới nổi như Trung Quốc muốn cho một cường quốc tầm trung ở khu vực và là đồng minh của Mỹ “một bài học”. Trước khi quan hệ song phương xấu đi, Bắc Kinh là đối tác thương mại lớn nhất của Canberra. Trong giai đoạn đó, chính sách đối ngoại của Úc với Trung Quốc không gây nhiều chú ý. Nhưng hiện nay, chuyến thăm của Thủ tướng Albanese giành được nhiều quan tâm, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản vốn đang theo dõi chặt chẽ tương tác của các đồng minh và đối tác với Bắc Kinh.

Có thể nói, mọi thứ đã thay đổi đáng kể vào khoảng năm 2016 khi Trung Quốc - Úc tranh cãi một số vấn đề gai góc, chẳng hạn tình hình Hong Kong, tranh chấp Biển Ðông, các cáo buộc về gián điệp, tấn công mạng và sự can thiệp của Bắc Kinh vào nền chính trị xứ chuột túi. Không còn là đồng minh thụ động của Mỹ, Úc vào năm 2018 bắt đầu đối kháng với Trung Quốc khi trở thành quốc gia đầu tiên cấm công ty viễn thông Huawei tham gia mạng 5G nước này. Năm 2020, sau khi chính phủ do Thủ tướng lúc bấy giờ là Scott Morrison đứng đầu kêu gọi điều tra độc lập nguồn gốc đại dịch COVID-19, Bắc Kinh công khai cảnh báo Canberra và không che giấu ý định dùng thương mại để trừng phạt Úc. Thời điểm đó, khoảng 40% giá trị xuất khẩu của Úc có điểm đến là Trung Quốc. Vì vậy, không ngạc nhiên khi Bắc Kinh tin họ có thể tận dụng thương mại nhằm gây sức ép.

Ðiều gây bất ngờ là Úc giữ vững quan điểm và dường như không bị ảnh hưởng tài chính nặng nề. Chẳng hạn mức thuế 80,5% Trung Quốc áp lên lúa mạch nhập khẩu từ Úc năm 2020, nông dân Úc ban đầu bị ảnh hưởng nhưng sau đó thành công chuyển sang thị trường mới hoặc trồng cây khác. Trung Quốc cũng ban hành lệnh cấm nhập khẩu không chính thức đối với quặng đồng Úc. Nhưng trong bối cảnh thế giới “khát” đồng, các nhà khai thác Úc dễ dàng tìm được thị trường khác trong khi Trung Quốc phải chi nhiều hơn để tìm nguồn cung thay thế. Chiến sự giữa Nga - Ukraine cũng có lợi cho Úc khi nâng cao tầm quan trọng của các nhà cung cấp hàng hóa. Khi giá cả bị đẩy lên cao, Bắc Kinh nhận ra họ cần tái xây dựng quan hệ với Úc một cách hợp lý.

Ảnh hưởng lan rộng

Sau hơn 3 năm, hậu quả xung đột chính trị và thương mại đã vượt ngoài biên giới Úc - Trung theo cách mà ít người dự đoán được. Chẳng hạn như trong lĩnh vực an ninh, cựu Thủ tướng Morrison đã công bố thỏa thuận an ninh giữa Úc với Mỹ - Anh (AUKUS) và tạo được tiếng vang khắp khu vực.

Song song việc củng cố quan hệ quốc phòng với Washington, Canberra còn tăng cường hợp tác với Nhật Bản, Ấn Ðộ và Philippines - những nước có tranh chấp với Bắc Kinh. Ở phía Ðông, cuộc cạnh tranh giành ảnh hưởng âm thầm giữa Canberra và Bắc Kinh cũng lộ diện, khiến 14 quốc đảo nhỏ nằm rải rác ở Thái Bình Dương chịu áp lực chọn bên dù đó không phải giải pháp trước nay họ mong muốn.

Quan hệ từ ổn định tới căng thẳng, sau đó hòa giải giữa Úc và Trung Quốc là lời nhắc quan trọng cho các quốc gia nỗ lực hợp tác với Trung Quốc trong kỷ nguyên cạnh tranh siêu cường, đặc biệt những nước đang chịu áp lực do các biện pháp trừng phạt thương mại từ Bắc Kinh. Theo James Laurenceson thuộc Viện Quan hệ Úc - Trung Quốc ở Sydney, tranh chấp địa chính trị đang lan sang trao đổi thương mại với tần suất ngày càng tăng. Câu hỏi đặt ra là mức độ lan tỏa này quan trọng như thế nào so với động lực cơ bản của thương mại, vốn là kinh tế chứ không phải chính trị.

MAI QUYÊN (Theo Nikkei)

Chia sẻ bài viết