Tết của người Tày có gì khác biệt? Câu trả lời có trong tập tản văn “Fừn nèn - Củi Tết” (NXB Phụ nữ) của tác giả Y Phương. Ngoài ra, người đọc còn được dịp tìm hiểu sâu về các phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của dân tộc Tày qua những bài viết chi tiết và đầy tình cảm của một người con ở vùng núi Tây Bắc.

Tác giả Y Phương (sinh năm 1948) là người dân tộc Tày ở tỉnh Cao Bằng, nổi tiếng với nhiều tập thơ và các giải thưởng văn học uy tín. Trong “Fừn nèn - Củi Tết”, từng bài viết, từng trang sách không chỉ là hồi ức, kỷ niệm của tác giả mà còn thấm đẫm bản sắc văn hóa người Tày, vừa phong phú, vừa mới lạ…
33 bài viết đa dạng đề tài về cuộc sống, phong tục, tập quán, con người miền núi, miền xuôi, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm bạn bè, lứa đôi… Trong đó, chủ đạo vẫn là những nét văn hóa truyền thống, những phong tục, tập quán tốt đẹp, lâu đời. Tiêu biểu như bài “Tết Tày có gì khác” giới thiệu với độc giả về cách ăn Tết của người Tày cụ thể, chi tiết. Đặc biệt là mâm cơm vào ngày mùng một Tết không hề có một cọng rau xanh nào vì người Tày sợ rằng sang năm, cỏ dại sẽ lấn át, ăn hết màu của cây rau, cây lúa. Ngoài bánh chưng, người Tày còn có bánh lăng gòong, bánh sấm, dùng cúng thần sấm để cầu cho mưa thuận gió hòa, ruộng đồng tươi tốt. Với bài “Fừn nèn”, độc giả biết được người Tày gọi Fừn nèn là củi Tết, là vật dụng thiết yếu không thể thiếu trong đời sống hằng ngày. Nếu người Việt xưa gọi là “gạo châu củi quế” (gạo quý như châu ngọc củi đắt ngang bằng quế chi) thì “Người Tày Nùng chúng tôi gọi bố lửa với mẹ củi. Thử hỏi trên đời này còn gì thân thiết hơn củi lửa” (trang 131). Cùng đó là phong tục vào rừng chặt củi để chuẩn bị cho ngày Tết và những loại củi đặc trưng như: củi nghiến, mạy puôn, mạy công…
Cứ thế, tác giả kể cho độc giả nghe những điều hay, khác lạ của dân tộc, quê hương mình. Đó là cái lạnh độc hại vào mùa sương muối dịp Tết mà người làng gọi là rét “dên thai”, nghĩa là rét chết, vì cái rét sương muối làm chết từ con người đến trâu bò, dê ngựa. Hay những món ngon nhớ mãi, như: cháo ngựa, phúng xàng (tương tự như lạp xưởng), bánh xì cheng (giống bánh rán), thịt hun khói… Về tục kết bạn tồng (bạn cùng năm sinh, sở thích), về cái ang nước được đặt trước cửa mỗi gia đình dùng để rửa chân cho chủ và khách trước khi bước chân vào nhà; về loại cỏ giàng giàng - một thứ củi đun rất đặc hiệu, dùng để luộc bánh chưng trong ngày Tết thì không còn gì bằng...
Thương quý từng nếp xưa, nét cũ; tác giả càng thêm day dứt, buồn lòng trước sự đổi thay của nếp sống hôm nay. Khi mà người trẻ của bản làng thích mặc những bộ quần áo tân thời hơn trang phục truyền thống, thích nấu nướng qua loa hơn là những món phải đầu tư tâm sức, và không coi trọng những nét văn hóa truyền thống (bài “Đêm nằm nghe sông kể”, “Cháo ngựa”, “Sách của dân cày”...). Đặc biệt, ông càng trăn trở, tiếc nuối khi tiếng của dân tộc Tày, còn gọi là “slư nam” không được dạy cho các thế hệ sau này và chỉ còn tồn tại trên những trang sách xưa cũ của làng (bài “Slư nam đi đâu rồi”).
Tập tản văn còn chan chứa tình yêu quê hương của tác giả và những tình cảm của ông dành cho những vùng miền của Tổ quốc, những nơi ông đã đi qua và trải nghiệm. Do đó, “Fừn nèn - Củi Tết” như một dấu nối với văn học các dân tộc trong thời kỳ hội nhập.
CÁT ĐẰNG