Trong bối cảnh đô thị hóa, không gian văn hóa sông nước Nam Bộ đang đứng trước nhiều biến đổi. Việc TP Cần Thơ tổ chức Lễ hội Văn hóa Sông nước không chỉ là hoạt động văn hóa - du lịch mang tính sự kiện, mà còn là nỗ lực gìn giữ, nhận diện và phát huy những giá trị di sản gắn liền với đời sống cư dân vùng sông nước. Từ góc nhìn của nhà nghiên cứu tâm huyết với văn hóa Cần Thơ, ông Trần Minh Thương (ảnh) (ngụ phường Ngã Năm) chia sẻ:

Không gian văn hóa đang dần thay đổi, kéo theo sự thay đổi của những biểu hiện văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân gian. Với đặc tính giao thoa và thích ứng, người bình dân đã có nhiều sự thay đổi trong sinh hoạt và đời sống để phù hợp với môi trường đô thị hóa.
Từ thực tế đó, tôi đặc biệt ấn tượng với sự quan tâm của TP Cần Thơ trong bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa địa phương. Nối tiếp nhiều lễ hội tôn vinh bánh dân gian, áo dài, áo bà ba, miệt vườn cây trái, văn hóa chợ nổi… đã thành công trước đây, Lễ hội Văn hóa Sông nước Cần Thơ lại là minh chứng sinh động cho sự quan tâm văn hóa của TP Cần Thơ.
Theo tôi, Lễ hội Văn hóa Sông nước Cần Thơ là cách làm rất hay trong việc tôn vinh bản sắc đặc trưng của vùng sông nước Nam Bộ, trong đó TP Cần Thơ giữ vai trò trung tâm. Kế đến, lễ hội sẽ góp phần khơi dậy ký ức văn hóa, kết nối quá khứ - hiện tại - tương lai của cư dân sông nước, đặc biệt là vùng sông rạch chằng chịt ở hạ lưu sông Hậu, mà vùng đất Cần Thơ là một điển hình. Lễ hội cũng tiếp thêm động lực và làm giàu tài nguyên phát triển du lịch văn hóa, nâng cao hình ảnh Cần Thơ như một hình mẫu “đô thị miền sông nước”.

Du khách trải nghiệm Văn hóa Chợ nổi Cái Răng.
Thưa ông, những giá trị cốt lõi nào của văn hóa sông nước Cần Thơ đang cần được gìn giữ và nhận diện rõ hơn trong đời sống đô thị hiện nay?
- Theo tôi, sẽ có rất nhiều những giá trị cốt lõi mang tính biểu tượng của văn hóa sông nước Cần Thơ cần được nhận diện, bảo tồn. Nhưng trong sự quan tâm của mình, tôi ấn tượng với những nét văn hóa dân gian sinh hoạt thường ngày.
Đầu tiên, đó là văn hóa ghe xuồng. Xuồng ghe gắn liền với những nét sinh hoạt, đời sống, từ di chuyển (đi lại, thăm viếng bà con, đưa đón dâu…), mua bán (ghe hàng, xuồng hàng bông, chợ nổi), đánh bắt (giăng lưới, giăng câu, chài cá, đẩy xệp, đẩy te, thăm lọp, dỡ nò…) đến diễn xướng (hò chèo ghe, kể chuyện dân gian, đờn ca tài tử trên mui ghe…).
Tên gọi các dòng chảy chứa các thành tố liên quan đặc trưng của sông nước cũng là điều tôi quan tâm, ví như vàm, xẻo, rạch, đường (nước)… Cách đặt tên gọi các dòng chảy phản ánh lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa ứng xử qua thời gian. Vì thế, tôi coi mỗi tên gọi dòng chảy ở vùng sông nước này là tình cảm là trí tuệ được tiền nhân gửi gắm vào đó.
Ngoài ra, việc đoán biết khi nào nước lớn, nước ròng, khi nào nước rong, nước đứng, chỗ nào nước xoáy, sóng cao…; cách đào kinh, xẻo, mương để thoát lũ, xả phèn, để tạo nên những đường tắt tiện cho việc đi lại… đều là những tri thức dân gian quý báu ngay trong thời hiện đại.
Từ góc nhìn của một nhà nghiên cứu, theo ông cần có những giải pháp gì để bảo tồn và phát huy văn hóa sông nước một cách bền vững, gắn với du lịch và đời sống cộng đồng?
Theo tôi, có 3 việc chính cần phải làm. Đầu tiên, cần có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, bài bản sưu tầm, khảo cứu những tri thức dân gian về sông nước. Cố định lại bằng văn bản chuẩn hóa. Đây chính là nguồn tư liệu quý có thể lưu giữ lâu dài cho hậu thế. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ trong xây dựng bản đồ số về các dòng chảy, tên gọi cổ hoặc các video tư liệu về kỹ thuật đóng ghe, cách đoán con nước, diễn xướng hò chèo ghe, kể chuyện… để lưu trữ, giúp cho nhiều người dễ dàng tiếp cận.
Thứ hai, bảo tồn và phát huy văn hóa sông nước bền vững, gắn sinh kế và đời sống cộng đồng. Chúng ta không thể đi ngược lại những quy luật của tự nhiên, nhưng chúng ta sẽ dựa vào những ưu điểm của hiện đại để phát huy. Chẳng hạn, chúng ta tổ chức nhiều mô hình gắn với du lịch sinh thái sông nước, đặt người dân địa phương là chủ thể, không chỉ là “đối tượng trưng bày”. Coi đó là nghề có thu nhập để họ sinh sống bền vững. Chủ nhân văn hóa “an cư” thì văn hóa sông nước sẽ “lạc nghiệp”. Tổ chức lễ hội, thực hiện “sân khấu hóa” văn hóa sông nước là một cách làm rất hay.
Cuối cùng, cần đưa vào Chương trình Giáo dục địa phương nội dung liên quan đến văn hóa sông nước. Đây là kênh hiệu quả để bồi dưỡng cho các thế hệ học sinh biết, hiểu và trân trọng những giá trị di sản văn hóa sông nước mà cha ông đã đúc kết, truyền lại.
Xin cảm ơn ông!
ĐĂNG HUỲNH (thực hiện)