Tiếng trống múa lân rộn rã trên khoảng sân rộng rợp mát bởi những tàn gừa. Nhang, khói bay mù mịt từ ngôi miễu Bà lan xa trong không gian. Trẻ con thì chăm chú theo dõi màn lên đồng của các đoàn múa từ khắp nơi đổ về khu tâm linh huyền bí nầy. Người chật cứng. Cũng dễ hiểu thôi, lễ hội mà.
Trong hơi men ngà ngà say của rượu đế Ba Thán - vốn là món “độc chiêu” của huyện Phong Điền nầy, chú Sáu Hiền kể vanh vách về sự linh thiêng của “Giàn Gừa” cho hàng chục người khách ngồi nghe. Có người bán tín bán nghi nhưng mê cái lối kể chuyện rất hấp dẫn của chú nên cũng chăm chú.
- Nè, vô khu nầy chớ có dại dột mà leo trèo hay bẻ nhánh gừa nghe, coi chừng “Bà” quở đó. Chú cảnh báo rất nghiêm trang.
- “Bà” mà chú nói là ai vậy? Một người khách chen vào.
- Tui mà biết chết liền! Nhưng hồi nhỏ lớn lên đã thấy giàn gừa nầy và sự tích của Bà Thượng Động Cố Hỉ. Bà chết nay đã một trăm năm mươi bốn năm rồi. Ngày hăm tám tháng hai “ta” là làm lệ cúng giỗ.
Chú Sáu kể những câu chuyện mà xứ nầy ai ai cũng biết. Nào là một chiếc Kô Be múc đất làm thủy lợi vô ý làm gãy nhánh gừa xanh tốt đang chìa ra mé sông. Đêm đó, bỗng dưng chiếc cần cẩu của nó gãy lìa rất lạ lùng. Mấy lão nông cố cựu khuyên người chủ Kô Be ấy đến tạ lỗi với bà bằng cặp vịt mới yên ổn. Chú Sáu nói: “Hổng biết chuyện có thiệt hay không nhưng thuở nhỏ, người làng ở đây đều truyền lại cho con cháu câu chuyện về Bà. Hồi mấy trăm năm về trước, một số người thân, tay chân của chúa Nguyễn Ánh chạy vô Nam lập nghiệp, trong đó có gia tộc họ Nguyễn của chú bây giờ. Không hiểu sao loại cây gừa nầy lại mọc lên xanh tốt, rộng đến một mẫu Tây. Lạ ở cái chỗ ai chặt phá, bẻ nhánh gừa đều bỗng dưng phát bệnh mà chết”. Từ đó khu rừng gừa nầy không ai dám lai vãng, gừa tốt mịt mù, cây nầy quấn chặt với các cây khác tạo thành những giàn gừa rất lạ lùng, đẹp mắt. Cái tên “Giàn Gừa” xuất hiện từ dạo đó. Rồi có lần mấy người dân quê làm ruộng hút thuốc “mô” sơ ý quăng tàn thuốc làm khu rừng nầy bốc cháy tan hoang.
- Thuốc “mô” là sao? Tụi tui chưa thấy nó bao giờ? Một người khách tò mò hỏi.
- Là thuốc rê mình quấn với lá mã tiền hay lá chuối non, vậy là “bóc lăn xe”, coi vậy chớ hút “phê” dữ lắm nghe. Nghe kể hồi đó lá gừa ở đây dầy tới bốn, năm tấc lận đó, bởi vậy chịu cháy là kể như đi đứt.
Tương truyền, sau đó mấy hôm, nhiều dân làng bỗng mắc căn bệnh lạ: không ăn uống được, ói mửa, nóng sốt, tiêu chảy rồi chết. Nhiều người lo sợ đã bỏ xứ ra đi, riêng dòng họ Nguyễn của chú Sáu cương quyết ở lại. Mấy tháng sau xuất hiện một đạo sĩ đầu tóc bác phơ nghe đâu tới từ Châu Đốc. Ông nầy hốt thuốc nam chữa bệnh lạ cho dân làng rất hiệu quả.
Hàng năm cứ vào ngày hai mươi tám tháng hai âm lịch là dòng họ Nguyễn lại tổ chức cúng tế long trọng. Mọi người đến đây cầu khẩn rất linh ứng nên đồn đại khắp nơi, ngày lệ giỗ có đến hàng ngàn người tới cúng vái.
Chú Sáu Hiền nhắm nghiền mắt lẩm bẩm như cầu khẩn lầm bầm trong miệng rồi im lặng. Nhớ hồi nhỏ, chú và mấy người bạn thỉnh thoảng lén bò vào khu giàn gừa mát lạnh để bắn bi, đánh trỏng, chơi bông vụ, chơi xong thì phóng xuống sông bơi lội cho thỏa thích. Có lần bị phát giác, cha chú lôi chú về nhà nện cho một trận đòn roi mây sưng đít phải nghỉ học cả tuần. Cha chú nói:
- Tao cấm mầy từ nay hổng có sớ rớ tới lui khu đó nữa. Cãi là tao đập chết.
Cấm thì cấm, nhưng chú và lũ bạn cũng cứ len lén tới đây bởi sức hấp dẫn rất kỳ lạ. Tới nay dù đã ở cái tuổi thất thập cổ lai hy mà chú cũng không tài nào giải thích được. Năm một ngàn chín trăm sáu mươi lăm, tới năm bảy mươi hai, vùng nầy chiến tranh ác liệt. Mỹ - Ngụy càn quét liên miên, pháo dội vô rừng gừa nồng nã ngày đêm. Dân làng, trong đó có chú Sáu, ruột đau như cắt. Mỗi lần hết pháo kích là chú lại ù ù chạy bộ tới đây coi mấy cây gừa sống chết ra sao.
Đang kể bỗng dưng chú Sáu Hiền nín thinh rồi đứng bật dậy, mắt ngước nhìn lên những đọt gừa cao nghều nghệu như đang tìm kiếm cái gì đó xa xôi huyền hoặc trong cái khoảng xanh sầm sậm to đùng của giàn gừa. Trên khuôn mặt già nua khắc khổ ấy, những giọt nước mắt hiếm hoi đang chực trào ra.
Chú nhớ cái đêm pháo giặc bắn vào khu nầy ầm ập suốt đêm, cả nhà không ai ngủ được. Lửa cứ cháy phần phật từ khu giàn gừa, những cột khói cứ bốc cao ngùn ngụt, tiếng gừa cháy rôm rốp nghe đau đến nhói lòng. Cha chú ra đứng phía sau nhà mắt bừng bừng lửa giận.
- Tui phải qua đó với anh em để cứu giàn gừa, má nó ở nhà coi chừng thằng Hiền nghe. Ông nói rất lớn như muốn át cả tiếng pháo.
- Trời ơi. Nguy hiểm như vậy mà ông đi sao đặng. Xin Bà phò hộ cho làng nầy. Nam mô a di đà. Má chú thảng thốt.
- Có chết tui cũng đi. Khu rừng đó là xương, là máu của dòng họ Nguyễn, là tài sản vô giá của dân làng mình. Thôi tui đi đây, nhớ lời tui dặn, chút nữa tui dìa.
Ông quơ cái phảng, tất tả đội cái nón lá rồi chạy vụt biến trong màn đêm. Bên ngoài màn đêm thỉnh thoảng lại rực sáng lên bởi hàng loạt hỏa châu của địch bắn liên tục.
Vậy mà cha chú không về. Sáng hôm sau, cả xóm kéo nhau lội ra giàn gừa mới thấy năm người du kích đã chết, thân mình còn vắt qua thân gừa, tay người nào cũng còn nắm chặt những chiếc thùng múc nước bằng tôn. Có lẽ họ đang ra chuyền nước cho nhau để cứu những cây gừa non không bốc cháy. Xóm nầy bắt đầu có một cái đám ma tập thể từ đó đến nay, đám giỗ hàng năm các gia đình đều tập trung cúng kiến tại nơi họ nằm xuống.
***
- Phải rảnh rỗi, tui mời mấy cô chú tới dự đám giỗ tập thể... Mà để tui kể chuyện nầy mới “rùng rợn”. Mấy lần giặc càn quét vô khu rừng gừa thì y chang lần đó bỏ mạng. Ngộ cái chỗ là chết mà hổng tìm thấy xác mới ghê. Tụi nó đồn rằng đám đi càn đã bị “bà” bẻ cổ nhấn xuống mương, từ đó chúng không còn dám càn vô khu “tử địa” nầy.
- Chú nói nghe “dỡn óc” quá. Mà chuyện đó có thiệt hôn chú.
- Tụi nó chết là có thiệt. Tụi tui - lúc đó là du kích, làm thịt nó chớ ai. Còn cái chuyện mất xác là do tụi tui tung tin cho nó hoảng hồn hoảng vía vậy thôi. Vậy mà “linh”. Tụi nó chạy vắt giò lên cổ. Thiệt đã - Chú Sáu cười hề hề.
- Hiện nay, thím và mấy em đang sinh sống ra sao?
- Tui có vợ con gì đâu. Một thân một mà...
- Sao vậy?
- Tại cái số là vậy. Trời kêu ai nấy dạ. Với lại tui còn nặng nợ với cái khu tâm linh nầy lắm, nhất là vong linh của cha tui cùng đồng đội. Ai tới đây đều kiếm tui để nghe kể lại nguồn gốc khu nầy, chuyện giặc đốt rừng gừa, chuyện khai hoang mở đất thời hồi xửa hồi xưa, thời buổi bây giờ, kể cho vui, cho nhớ, tui kỵ cái vụ mê tín dị đoan lắm.
***
Sau giải phóng, dòng họ Nguyễn lại tiếp tục tu bổ, chăm sóc khu giàn gừa và khói hương cho miễu bà không hiu quạnh. Đáng tiếc là khu rừng nguyên sinh quý hiếm năm xưa giờ chỉ còn khoảng bốn công. Đang kể bỗng dưng giọng chú Sáu chùng xuống.
- Có chuyện gì mà sao thấy chú buồn buồn vậy?
- Không buồn sao được. Tuổi thơ tui đã gắn bó với gừa, mất nó tui cảm thấy có lỗi vô cùng. Vậy mà nghe nói...
- Nghe nói sao chú sáu?
- Nghe nói người ta sắp biến khu giàn gừa nầy thành khu du lịch sinh thái sinh thiết gì đó, tui lo lắm.
- Trời đất. Đáng lẽ chú nên mừng mới đúng, mở rộng khu nầy mai mốt đất có giá cho coi.
- Tui biết, nhưng cứ lo. Rồi đây giàn gừa nguyên sinh quý hiếm và nhiều kỷ niệm với tui biết có còn nguyên hôn? Hay người ta lại đốn hạ, chặt bỏ nó không thương tiếc.
Nói đến đó chú Sáu Hiền im lặng, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía giàn gừa đang xanh thăm thẳm như những chứng nhân lịch sử. Dường như chú thấy ẩn hiện đâu đây hình bóng năm người du kích đang cười mãn nguyện, thấy cái quá khứ tuổi thơ của chú cứ bay lượn chập chờn dưới những tàn gừa tua tủa báo hiệu một sức sống rất mãnh liệt, phi thường.