04/04/2016 - 21:30

NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG NĂM 2015

 Ths Luật NGUYỄN DUY QUỐC

Ngày 19-6-2015, Quốc hội Việt Nam (khóa XIII) đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương (Luật TCCQĐP), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2016. Luật TCCQĐP ra đời trên cơ sở kế thừa Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2003, bổ sung cho phù hợp với những quy định mới của Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa các chủ trương, định hướng của Đảng ta về chính quyền địa phương.

Có thể nói sau hơn 11 năm thực hiện Luật Tổ chức HĐND và UBND, HĐND và UBND các cấp đã không ngừng được củng cố và kiện toàn, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội tại địa phương được thực hiện tốt. Tuy nhiên, theo yêu cầu của nhiệm vụ thực tiễn trong tình hình mới, cho thấy Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã bộc lộ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung.

 Diễn đàn đối thoại với công dân được quận Bình Thủy tổ chức hàng năm nhằm tuyên truyền các chính sách của nhà nước và tháo gỡ các vướng mắc cho người dân.

Luật TCCQĐP có 8 chương và 143 điều, điều chỉnh các vấn đề về đơn vị hành chính và tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính. Luật quy định tất cả các đơn vị hành chính đều tổ chức HĐND và UBND (cấp chính quyền địa phương), đồng thời chấm dứt việc thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. UBND huyện, quận, phường nơi không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tiếp tục giữ nguyên cơ cấu tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định cho đến khi bầu ra chính quyền địa phương ở huyện, quận, phường theo quy định của Luật. Đặc biệt Luật còn quy định đơn vị hành chính cấp huyện ở hải đảo, tổ chức chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND. Đối với đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt cũng có HĐND và UBND.

Luật TCCQĐP quy định 6 nguyên tắc phân định thẩm quyền, các trường hợp phân quyền, phân cấp, ủy quyền. Một là bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất về thể chế, chính sách, chiến lược và quy hoạch đối với các ngành, lĩnh vực; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia. Hai là phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính trong việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Ba là kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa chính quyền địa phương các cấp đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ. Bốn là việc phân định thẩm quyền phải phù hợp điều kiện, đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đặc thù của các ngành, lĩnh vực. Năm là những vấn đề liên quan đến phạm vi từ hai đơn vị hành chính cùng cấp trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết của chính quyền cấp trên, trừ trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ có quy định khác. Sáu là chính quyền địa phương được bảo đảm nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp và chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân quyền, phân cấp.

Luật TCCQĐP quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính theo hướng chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh, giảm dần xuống cấp huyện đến cấp xã để tránh tình trạng dồn việc về cấp cơ sở mà không tính đến khả năng đáp ứng của từng cấp chính quyền; nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở địa bàn nông thôn tập trung thực hiện quản lý theo lãnh thổ; ở địa bàn đô thị chú trọng thực hiện quản lý theo ngành, lĩnh vực.

Bên cạnh đó, luật này còn quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương phải thực hiện như tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn; quyết định những vấn đề của địa phương trong phạm vi được phân quyền, phân cấp; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền... Đồng thời, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND trên các lĩnh vực nhằm thể hiện rõ sự gắn kết chặt chẽ, thống nhất giữa hai thiết chế HĐND và UBND hợp thành chính quyền địa phương. Trong đó, đáng chú ý về quy định nhiệm vụ, quyền hạn đặc trưng của chính quyền đô thị nhằm thể hiện sự khác biệt với chính quyền nông thôn.

Ngoài ra, Luật TCCQĐP bổ sung những điểm mới về tiêu chuẩn, số lượng đại biểu HĐND các cấp, quy định đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. Quy định khi có từ 10% trở lên trong tổng số cử tri trên địa bàn cấp xã yêu cầu, Thường trực HĐND cấp xã có trách nhiệm xem xét tổ chức kỳ họp HĐND để bàn về nội dung kiến nghị của cử tri.

Luật TCCQĐP quy định thành viên UBND cấp tỉnh, cấp huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an để bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể của UBND bao quát đầy đủ các lĩnh vực chuyên môn, tạo điều kiện thực hiện việc giám sát của HĐND và lấy phiếu tín nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND và cơ quan quân sự, công an ở địa phương; quy định thành viên UBND cấp xã gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và Ủy viên phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an.

Luật này còn quy định UBND cấp xã mỗi năm có trách nhiệm tổ chức ít nhất một lần hội nghị trao đổi, đối thoại với nhân dân về tình hình hoạt động của UBND và những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công dân ở địa phương.

Bên cạnh đó, Luật còn quy định nhiều vấn đề mới như các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của chính quyền địa phương… Việc ban hành Luật TCCQĐP còn là cơ sở pháp lý vững chắc và tiến bộ trong đợt bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND 3 cấp vào tháng 5-2016 sắp tới.

Chia sẻ bài viết