02/03/2025 - 14:18

Nhớ vị tướng Dương Văn Dương 

Cách nay 79 năm, vị tướng Dương Văn Dương đã anh dũng ngã xuống trên chiến trường miền Tây Nam Bộ khi đang chỉ huy một cuộc hành quân đánh Pháp tái xâm lược.

Thủ lĩnh giang hồ nghĩa hiệp và yêu nước

Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo yêu nước ở Bến Tre, cha mất sớm, Dương Văn Dương khi ấy phải nghỉ học sớm và làm nhiều nghề để kiếm sống. Ham học võ nên vừa lăn lộn kiếm sống, ông vừa đi nhiều nơi trong vùng, tìm đến nhiều thầy nổi tiếng giỏi võ để theo học. Năm 1936, ông trở về sinh sống tại xóm cầu Rạch Đỉa, làng Tân Quy (Nhà Bè) và mở lò dạy võ giúp người dân tự vệ. Dần dần, lớp dạy võ thu hút hàng trăm đệ tử theo học. Vốn là người trọng nghĩa khí nên tên tuổi ông nổi tiếng trong giới giang hồ ở Nam Kỳ.

Năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, giặc Pháp truy lùng, đàn áp khốc liệt các chiến sĩ cách mạng và cả những người có tiếng trong giới giang hồ. Dương Văn Dương bị bắt giam hai lần vào năm 1941. Thời gian ở trong tù, ông có dịp tiếp xúc với các bạn tù chính trị cách mạng. Quý mến cảm phục bản lĩnh, nhân cách, tinh thần vì đại cuộc của những người làm cách mạng nên ông chủ động làm quen và dần được cảm hóa, thức tỉnh lòng yêu nước thương nòi trước họa ngoại xâm. Thoát khỏi tù ngục, nhằm tránh sự theo dõi của chính quyền thực dân, ông đi lánh mặt tận vùng biên giới Việt Nam - Campuchia.

Sang đầu năm 1943, ông trở về Tân Quy, Nhà Bè và được những đảng viên cộng sản như Ba Của, Hai Lân, Tư Huệ móc nối giác ngộ cách mạng. Đây là bước ngoặt quan trọng và ông Dương Văn Dương tận dụng các mối quan hệ, thầu bảo vệ bãi chứa gỗ của Hãng đóng tàu Nichinan của Nhật Bản ở Sài Gòn để làm cơ sở hoạt động bí mật. Tại địa chỉ này ông đã liên lạc, thuyết phục, quy tụ các nhóm giang hồ và cất giấu vũ khí chuẩn bị cho những hành động vì nghĩa lớn.

Thiếu tướng Dương Văn Dương (1900-1946). Ảnh: TL

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Nhờ sự bàn bạc tư vấn của các cán bộ cách mạng, ông Dương Văn Dương nhanh chóng đã vận động, tập hợp và thống nhất nhiều băng nhóm giang hồ ở Nhà Bè đi vào hoạt động có tổ chức. Ông cho mở tiệm cơm, quán nhậu nhằm thu hút quân lính Pháp và Nhật để gạ mua vũ khí hoặc dùng mưu kế để tước vũ khí của chúng trang bị cho quân mình. Ông còn chỉ huy lực lượng của mình phối hợp với thanh niên tiền phong, tổ chức đột nhập tận nhà những tên tay sai ác ôn, mật thám, chỉ điểm để tước súng và trừng trị chúng.

Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, thông qua Chi bộ Đảng Cộng sản ở Nhà Bè, ông Dương Văn Dương nhận được chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ, bí mật tập hợp toàn bộ thủ lĩnh các băng nhóm giang hồ, khích lệ tinh thần yêu nước, cách mạng vì đại nghĩa, phổ biến kế hoạch và phân công phối hợp hoạt động trên địa bàn Nhà Bè và cả Sài Gòn. Cách mạng vừa thành công, quân Pháp núp bóng quân Đồng minh nổ súng tái xâm lược, mà Sài Gòn là mục tiêu đầu tiên. Nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến. Ông Dương Văn Dương nhanh chóng thuyết phục đi đến thống nhất các nhóm giang hồ ở Nhà Bè thành một khối và ông lấy tên Bình Xuyên đặt cho lực lượng do mình chỉ huy.

Vị tướng mưu trí và dũng cảm

Cuộc chiến đấu chống quân Pháp tái xâm lược ở Sài Gòn và Nam Bộ ngày càng gay go. Với lợi thế về vũ khí và được sự hỗ trợ của quân Anh - Ấn, quân Pháp tấn công quyết liệt. Quân ta trang bị vũ khí thô sơ, lực lượng chủ yếu tự phát, ở thế cầm cự, rồi rút về chiến khu bưng biền. Trước tình thế đó, bên cạnh các đoàn quân Nam tiến chi viện đầy khí thế, nhằm thống nhất các lực lượng vũ trang Nam Bộ về một mối, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng tư lệnh đã cử tướng Nguyễn Bình - Tư lệnh Chiến khu Đông Triều vào Nam vào tháng 12-1945. Ông đặc biệt đến lực lượng Bình Xuyên dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông Dương Văn Dương.

Mặc dù tình thế khó khăn nhưng lực lượng Bình Xuyên cũng chủ động đánh Pháp nhiều trận, lập được chiến công. Tiêu biểu là trận Cây Khô do ông Dương Văn Dương trực tiếp chỉ huy, với sự phối hợp của Bộ đội Tám Mạnh, tức Nguyễn Văn Mạnh, đã phục kích một đoàn tàu trên sông Lòng Tàu, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, thu 1 tàu kéo, 1 sà lan và 4 ghe đầy lương thực, thực phẩm. Sau trận đánh, Khu bộ trưởng Khu 7 Nguyễn Bình đã gửi thư khen: “…Toàn quốc nghe tin Bộ đội Bình Xuyên đánh giặc dũng cảm. Các anh em xứng đáng với tên Giải phóng quân Nam Bộ”.

Bộ đội Bình Xuyên ở Nhà Bè còn chủ động liên quân với Bộ đội Thủ Thiêm của Mười Lực đánh nhiều trận. Tuy nhiên, trước quyết tâm đánh chiếm toàn bộ Sài Gòn và vùng phụ cận, quân Pháp đã tung hết lực lượng tấn công. Mặt trận số 4 bị vỡ. Để bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, ông Dương Văn Dương lệnh cho các đơn vị rút về Phước An, Long Thành để chấn chỉnh, thống nhất và củng cố các đơn vị bộ đội Thủ Thiêm, Tân Thuận, Nhà Bè, Cần Giuộc, Phú Nhuận… và chọn Rừng Sác làm căn cứ địa.

Giữa tháng 12-1945, Khu bộ trưởng Khu 7 Nguyễn Bình trực tiếp đến thăm Sở Chỉ huy Bình Xuyên tại Phước An và quyết định bổ nhiệm ông Dương Văn Dương làm Khu bộ phó Khu 7. Hành động của ông Nguyễn Bình khi đích thân mang quyết định bổ nhiệm Khu bộ phó Khu 7 đến trao tận tay ông Dương Văn Dương thể hiện sự trân trọng đối với ông và lực lượng Bình Xuyên.

Theo lệnh của Khu bộ trưởng Nguyễn Bình, Khu bộ phó Dương Văn Dương trực tiếp đưa quân chi viện đánh Pháp ở mặt trận Biên Hòa thắng lợi vang dội. Trận tập kích địch ở thị xã này diễn ra vào lúc 9 giờ ngày 1-1-1946, với nhiều cánh quân chia làm hướng chính, hướng phối hợp và hướng nghi binh. Sau đó, Khu bộ phó Dương Văn Dương còn nhận lệnh chỉ huy một bộ phận quan trọng lực lượng Bình Xuyên từ Chiến khu Rừng Sác xuống chi viện cho chiến trường ở ĐBSCL. Vừa hành quân vừa đánh giặc và thống nhất các lực lượng vũ trang nơi đơn vị tiếp quản.

Theo yêu cầu của Khu bộ phó Khu 8 Trương Văn Giàu chi viện cho miền Tây, Khu bộ phó Khu 7 Dương Văn Dương đã triệu tập hội nghị quân sự tại Rạch Su. Ông đã trình bày kế hoạch đưa quân xuống tăng cường Chiến khu Bến Tre, tiếp cứu mặt trận An Hóa - Giao Hòa đang bị quân Pháp vây hãm uy hiếp căng thẳng. Đêm 30 Tết Bính Tuất 1946, ông Dương Văn Dương ra lệnh binh sĩ lên tàu xuồng vượt sông Soài Rạp, nhanh chóng hành quân xuyên qua Bình Phục Nhất. Liên quân vừa đi vừa đánh tạo khí thế và ủy lạo nhân dân.

Tuy nhiên, khi liên quân vừa đến bờ nam Cửa Tiểu thì được tin cấp báo mặt trận An Hóa - Giao Hòa đã bị địch đánh chiếm. Ông Dương Văn Dương cùng Bộ Chỉ huy hành quân liền tổ chức hội nghị quyết định tổ chức đánh đoàn tàu thực phẩm của Pháp, sau đó hành quân về xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre để hội quân với lực lượng Cộng hòa Vệ binh, Quốc gia Tự vệ cuộc do hai ông Trương Văn Giàu và Nguyễn Văn Quạn chỉ huy. Tiếp theo sẽ bàn kế hoạch phối hợp mở mặt trận đánh quân Pháp...

Thà chết chứ không làm tướng hèn

Hội nghị đang diễn ra khẩn trương thì lại nhận tin cấp báo quân Pháp sắp tấn công liên quân. Các đơn vị nhận lệnh triển khai lập phòng tuyến. Thế nhưng quân Pháp đã xua quân ập đến bao vây. Pháo binh Pháp bắn phá dọn đường cho bộ binh đánh vào đội hình quân ta. Tình hình nguy ngập, ông Dương Văn Dương được một cán bộ tham mưu đưa cho một xấp giấy thuế thân nhằm cùng các chỉ huy quan yếu giả dạng thường dân vượt thoát bảo toàn tính mạng và lực lượng. Vừa nhận giấy ông bất ngờ xé vụn và khẳng khái nói: “Cảm ơn anh đã lo cho tôi, nhưng kẻ làm tướng mà bỏ quân chạy trước là tướng hèn”.

Tinh thần quả cảm của người đứng đầu đã truyền thêm sức mạnh cho liên quân vùng lên kháng cự. Khoảng hơn 8 giờ sáng, 3 chiếc máy bay của quân Pháp lao tới, quần đảo mấy vòng rồi chúi xuống xả nhiều loạt đạn vào làng Châu Bình mà quân ta mới dừng chân. Ông Dương Văn Dương xoay quanh cây rơm sau nhà trú quân theo dõi hoạt động của máy bay địch, chỉ huy các đơn vị chiến đấu. Chẳng may, một viên đạn kẻ thù xuyên thẳng lồng ngực, ông ngã xuống hy sinh ngay trên chiến trận. Đó là lúc 8 giờ 30 phút ngày 17-2-1946, nhằm ngày 16 tháng giêng năm Bính Tuất. Thi hài ông được bộ đội và nhân dân bảo quản chôn cất tại làng Châu Bình thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, hài cốt của ông được cải táng đưa về yên nghỉ tại TP Hồ Chí Minh.

Sự hy sinh anh dũng của ông Dương Văn Dương đã gây chấn động mạnh, có sức động viên to lớn tinh thần chống Pháp của cán bộ chiến sĩ và nhân dân Nam Bộ. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra quyết định ngày 5-8-1948 công nhận ông là liệt sĩ và truy phong quân hàm Thiếu tướng, trở thành vị tướng được truy phong đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong mật điện số 946/TRT, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi lời chia buồn đến gia quyến của ông Dương Văn Dương. Trước đó, năm 1947, Ủy ban Kháng chiến - Hành chính Nam Bộ quyết định lấy tên Dương Văn Dương đặt cho một kênh đào dài nhất ở Đồng Tháp Mười. Ngoài ra, Trung đoàn 300 - Trung đoàn Nam tiến đánh giặc giỏi còn vinh dự mang tên Trung đoàn Dương Văn Dương. Đây là trung đoàn đầu tiên của miền Đông Nam Bộ. Hiện nay, trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, từ năm 2014 còn có Trường THPT Dương Văn Dương ở huyện Nhà Bè, ngoài ra còn con đường mang tên ông tại phường Tân Quý, quận Tân Phú từ năm 2000.

PHAN TẤN HÙNG

Chia sẻ bài viết