08/10/2023 - 08:25

Khói lam chiều 

Truyện ngắn của VŨ NGỌC GIAO

"Mẩy, qua đây với bà!". Đứng bên hàng rào bà tôi gọi với sang. Bên kia chị Mẩy đứng lắc lư, hai bàn tay ấp gương mặt làm điệu bộ chỉ tôi mới hiểu, chị bắt chước chị Lam trong làng hôm nọ làm cô dâu. Trên đầu chị cài một mớ hoa râm bụt, đậu biếc… "Nhanh nhanh bà cho cái này!". Bà tôi lại gọi, tay vén hàng rào. Chị Mẩy chui qua rồi ôm chầm lấy bà cười, miệng tèm lem lọ nồi. Bà đưa chị nắm xôi, dỗ dành. Chị Mẩy cầm nắm xôi ngồi bệt xuống bậc thềm ăn ngon lành. Bà tôi lúc này mới lấy từ trong túi áo ra chiếc lược, tỉ mẩn gỡ từng sợi tóc rối của chị.

"Sao bà lại gỡ hoa của cô dâu! Con không chịu đâu", chị Mẩy vùng vằng đứng lên, khóc mếu máo. "Bà chải tóc Mẩy cho mượt để lát gội bồ kết rồi bà lại cài hoa cho". Chị Mẩy nghe ra, lát sau ngoan ngoãn theo bà ra giếng gội đầu. Mùi bồ kết nồng nồng theo gió thoảng vào đến hiên. Tôi đứng trong bếp nhịn cười nhìn chị Mẩy lắc lư, còn bà vừa gội vừa thủ thỉ dỗ dành.

Chị Mẩy là con ông Thưởng giàu có nhất làng tôi ngày trước. Vợ ông sinh một đàn con, tưởng thôi, ai đời ông dan díu với bà Hớn làng bên, sinh ra chị Mẩy. Nhận ra chị không bình thường như con người ta, một đêm bà Hớn lặng lẽ đặt chị Mẩy trước nhà ông Thưởng rồi bỏ đi biền biệt. Gia đình ông Thưởng buộc nhận chị Mẩy, nhưng vợ con ông ầm ĩ, cắn đắng ông không thôi. Ông Thưởng sau đó cũng đổ bệnh mà qua đời. Người làng bảo chị Mẩy như tội nợ của ông Thưởng vì ngày còn trẻ ông trót ăn ở ác với người làng tôi.

Mùa nắng cũng như mưa, chị Mẩy chạy rông khắp làng trên xóm dưới, múa may hát hò, gặp ai chị cũng cười, rủ làm cô dâu. Trong làng chỉ có bà tôi là thương chị đến lạ lùng. Mỗi khi về quê tôi luôn nghe cô chú tôi càu nhàu việc bà cứ gọi chị Mẩy sang tắm táp, gội đầu. Hôm nào ăn cơm bà cũng chừa riêng một phần, sau lại vẫy chị Mẩy sang. Trong khi chị ăn bà phe phẩy cái quạt nan, lâu lâu mắng yêu "Phải ở thành phố người ta cho vô nhà thương điên con ạ! May mà ở quê, lại có bà".

Mãi sau này tôi mới hiểu vì sao chị Mẩy hiền lành mà cô chú tôi lại khó chịu với chị đến thế. Số là ngày trước ông bà tôi túng bấn thường sang vay lúa, vay tiền ông Thưởng. Không riêng gì ông bà tôi, cả làng cần gì đều vay ông. Ông Thưởng cho vay nặng lãi. Đến kỳ hạn, ai không trả nổi, ông cho người đến cắt đất vườn hoặc lấy đi những gì quý giá nhất trong nhà người ta.

Năm đó ông tôi đến kỳ hạn trả nhưng chưa có tiền, ông Thưởng cho người sang nhà khiêng bộ lư đồng về. Nhà ông bà tôi bấy giờ có mỗi bộ lư đồng là tài sản quý giá. Trừ nợ vẫn chưa đủ, ông Thưởng còn cho người cắm lại hàng rào. Vườn ông bà tôi sát vườn nhà ông Thưởng, mảnh vườn rộng thênh qua hôm sau chỉ còn lại một nửa. Ông Thưởng lấy phần đất có cả cây ăn trái lâu năm. Ông tôi uất ức quá đổ bệnh, hai tháng sau thì qua đời.

Cái chết của ông tôi khiến bà con trong làng càng thêm căm ghét ông Thưởng, cô chú tôi lòng lúc nào cũng âm ỉ căm phẫn. Việc chị Mẩy xuất hiện trong nhà ông Thưởng như từ trên trời rơi xuống khiến cho nhiều người trong làng thấy như "Quả báo, đời cha ăn mặn…". Duy chỉ có bà tôi là yên lặng. Ngày ngày làm cỏ vườn bà nhìn sang bên kia hàng rào thấy chị Mẩy lê la chẳng ai bồng bế. Chị Mẩy lên năm tuổi, ông Thưởng qua đời, đàn con ông cũng bỏ xứ đi xa, chỉ còn lại vợ chồng người con út. Chị Mẩy thì vẫn tiếp tục bị hắt hủi như từ thuở nhỏ vậy thôi. Đến bữa ăn chẳng mấy khi chị Mẩy được ngồi chung, cuối bữa còn chút cơm thừa canh cặn chị mới được ăn. Bên này nhìn sang bà tôi thấy hết, đợi mọi người đi khỏi bà lại vẫy chị Mẩy sang bên này để bà tắm táp, cho ăn.

"Mẹ già rồi còn đi lo cho đứa con nhà ác độc!", cô tôi lầm bầm. Chú tôi đi xa về nghe kể cũng kéo bà vào nhà nhỏ to "Đến giờ chúng con vẫn chưa quên vì sao bố mất". Bà tôi lần nào nghe xong cũng lẳng lặng ra sau hè ngồi nhìn mông lung ra đồng. Có lần tôi thấy bà kéo vạt áo chặm vào mắt nghẹn ngào "Lão Thưởng ác nhưng con Mẩy tội tình gì, lại tật nguyền, chừng đó chưa đủ trả nợ với cuộc đời sao?". Cô chú tôi nghe vậy thì yên lặng.

Có vẻ như chị Mẩy ý thức trên đời chỉ có duy nhất bà tôi yêu thương, che chở chị. Mỗi lần bên bà, chị lại làm nũng nhưng bà nói gì cũng ngoan ngoãn nghe lời. Lần nào ăn dở nắm xôi, củ khoai hay trái bắp mà nghe đầu ngõ tiếng cô chú tôi về, lập tức chị Mẩy lao ra vườn chui tọt qua hàng rào về bên hiên ngồi im thin thít. Mỗi lần chứng kiến cảnh đó, bà tôi lại càng thương…

Một lần chị Mẩy qua tìm bà, gặp lúc bà ra chợ chỉ còn tôi ở nhà. Thấy tôi, chị đi giật lùi ra cửa, miệng lắp bắp những câu không rõ nghĩa. Thấy thương, tôi vẫy chị "Lại đây em chải tóc cho chị". Chị chạy lại ngay. Khi tôi dắt chị vào soi trong chiếc gương bà giắt ở cửa buồng, chị Mẩy nghiêng đầu ngắm nghía mái đầu được chải gọn gàng, miệng cười nhìn tôi vẻ xúc động. Hóa ra ngoài bà còn có người cũng thương chị. Chị mừng vui phấn khích nắm tay tôi chạy long nhong khắp vườn. Tôi yên lặng ngắm nỗi vui trong mắt chị, nó ánh lên vẻ trẻ trơ trong ngần. Có chút gì ấm áp len lỏi vào lòng, tôi thầm thì "Mùa hè em về thăm bà, chị cứ sang đây em chải tóc cho!". Chị Mẩy gật đầu lia lịa rồi lại chạy long nhong đầy phấn khích cho đến khi bà tôi về. Chị lao ra khoe bà chuyện tôi chải tóc. Bà nhìn tôi rưng rưng như thể tôi đã mang đến cho bà nỗi vui.

*

*    *

Tôi đi học xa, ở nhà bà đột ngột qua đời. Xem những tấm ảnh trong đám tang bà do bố tôi chụp gửi sang, tấm hình nào tôi cũng thấy chị Mẩy gục đầu bên quan tài bà.

Nghỉ hè trở về quê, tôi ra đồng thăm mộ bà, hơn một năm ngôi mộ đã xanh cỏ. Ông bà tôi đã về nằm cạnh nhau trên đồi cao, nhìn xuống cánh đồng bạt ngàn nắng gió. Nơi này chiều chiều đàn sáo lại kéo về ríu rít trên ngọn cây cao. Tôi ngồi thụp xuống khẽ chạm vào gương mặt bà khắc trên tấm bia mờ ảo sau lớp khói hương. Có bóng người ngồi tựa vào tảng đá dưới chân mộ, tôi lại gần kêu lên "Chị Mẩy!". Chị Mẩy giật mình quay lại nhìn tôi, gương mặt trong gió heo may ngơ ngác, câm lặng. Mái tóc rối bù ngày nào giờ được chải gọn gàng, tuyệt nhiên không cài một bông hoa nào. Trong bộ đồ nâu vải thô, chị gầy đi rất nhiều. Tôi lại gần nắm bàn tay chị "Chị Mẩy nhớ em không?". "Có chứ sao không" chị gật đầu "Em Xuyến cháu bà đây thôi!". Giọng chị trong trẻo như một người bình thường, thần thái cũng không còn vương chút gì của một người hay chạy khắp làng với mái tóc rối đầy hoa.

Tôi về nghe cô chú kể, từ dạo bà mất, ngày nào chị Mẩy cũng ra mộ hương khói rồi ở đó đến đêm. Chị không còn chạy long nhong khắp làng, không đòi làm cô dâu. Chị đã biết việc nhà cửa, ruộng vườn. Bà con trong làng ai cũng kinh ngạc, nói chắc là bà tôi thương nên phù hộ cho chị.

Ba năm sau tôi mới có dịp về lại quê, khi ra đồng thăm mộ ông bà, cách đó không xa, tôi nhìn thấy một nấm mộ có lẽ vừa được xây cất, chân hương còn mới. Tôi lại gần nhìn vào tấm bia, bàng hoàng "Chị Mẩy ơi!" tôi thầm thì gọi...

Chú tôi kể lại rằng hai ngày liền không thấy chị Mẩy đâu, người làng chia nhau đi tìm thì nhìn thấy chị nằm bên mộ bà tôi, gương mặt bình thản như say ngủ. Chị đi từ bao giờ chẳng ai hay. Cô chú tôi thương, xin gia đình chị Mẩy cho chị được về gần bà, trong nghĩa trang gia tộc.

Chiều xuống quê tôi đẹp mơ màng, nếp nhà nào cũng có khói lên nghi ngút. Tôi bỗng nhớ bà, nhớ nồi nước bồ kết gội đầu, nhớ chị Mẩy với mái đầu đầy hoa. Tôi như nghe có cả tiếng bà âu yếm gọi chị Mẩy "Lại đây bà gội đầu cho"...

Chia sẻ bài viết